LỄ ĐỨC MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Kh 11,19a;12,1-6a.10ab; 1Cr 15,20-27; Lc 1,39-56
MỤC LỤC
2. Một bản thánh ca bắt đầu vang lên
4. Cảm nghiệm ơn Chúa (TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
5. Đức Maria: địa chỉ trên cao (GM Giuse Vũ Duy Thống)
6. Mẹ Lên Trời là hy vọng của chúng ta
8. Theo Đức Mẹ lên trời (GM GB. Bùi Tuần)
12. Thiên Chúa chiến thắng con rồng đỏ (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
13. Thăm viếng và bài ca ngợi khen
16. Trận chiến chống lại sự dữ
17. Thông phần vào vinh quang của Con Mẹ
18. Đức Maria Đồng Trinh, hồn xác lên trời
20. Phận hèn cao trọng (Trầm Thiên Thu)
Tại nhiều giáo xứ bên Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, người ta có tục lệ rước kiệu như thế này:
Một kiệu Đức Mẹ từ cuối làng đi lên. Còn một kiệu Chúa Giêsu từ đầu làng đi xuống. Cả hai sẽ gặp nhau tại sân nhà thờ. Người ta sắp đặt để cả hai tượng đều cúi đầu chào nhau ba lần, rồi sau đó cũng tiến vào nhà thờ, tượng trưng cho việc Chúa Giêsu dẫn đưa Mẹ Ngài vào quê hương Nước Trời. Nghi thức này tuy đơn sơ nhưng lại gây một ấn tượng mạnh mẽ nơi những người người tham dự. Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy niềm tin vào việc Đức Mẹ hồn xác lên trời đã được manh nha từ một thời rất xa xưa. Thực vậy, vào năm 457, Đức Giám Mục Giêrusalem đã viết như sau: Mẹ Maria qua đời, có các tông đồ vây quanh. Nhưng rồi sau khi chôn cất được ít lâu, ngôi mộ bỗng được mở ra, các tông đồ nhận thấy nó hoàn toàn trống rỗng và rồi các ông đã kết luận Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Đúng thế, Chúa Giêsu đã không muốn để Mẹ Ngài phải chịu một giây phút nào dưới quyền lực của Satan và tội lỗi, nên đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Đồng thời Ngài cũng không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu cảnh mục nát trong mồ, nên đã ban cho Mẹ đặc ân được về trời cả hồn lẫn xác. Thiên Chúa Ba Ngôi cùng với triều thần thánh trên trời mừng rỡ chúc tụng Mẹ.
Đó là niềm hạnh phúc của những người thân yêu gặp lại nhau. Và đó cũng là niềm hạnh phúc mà mỗi người chúng ta đều có thể mong đợi. Đúng thế, trong ngày lễ Mẹ về trời chúng ta có thể nghĩ tưởng tới ngày chúng ta cũng sẽ được bước vào quê hương Nước Trời, sau một cuộc đời trung thành phụng sự Chúa. Chính tại quê hương Nước Trời này, chúng ta sẽ được gặp lại những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta.
Đồng thời chúng ta cũng có thể suy nghĩ về sự chết. Thực vậy, cái chết không còn là một ngõ cụt, một chấm dứt, như nhiều người thường bảo: chết là hết. Trái lại đối với chúng ta, những người có đức tin, thì chết là giây phút chúng ta được trở về nhà Cha, được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu, được gặp lại những người thân yêu như lời kinh nguyện Thánh Thể chúng ta vốn thường nghe đọc: Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và toàn thể các thánh.
Chúng ta hãy sốt sắng đọc kinh Kính Mừng và đặc biệt chú ý tới lời kêu xin: Cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi, khi này và trong giờ lâm tử.
Vì thế, hãy cầu nguyện và ra sức uốn nắn những sai lỗi để đổi mới cuộc đời, nhờ đó trong ngày sau hết chúng ta cũng sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
2. Một bản thánh ca bắt đầu vang lên
Phúc âm thuật lại những ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho Đức Maria, nhấn mạnh nhiều nhất về Đức Maria gương mẫu đức tin. Phúc thay cho bà, vì bà đã tin … Nghĩ về chúng ta, Thiên Chúa đã muốn rằng Mẹ Thiên Chúa phải được thỉnh mời đáp bằng một tiếng vâng đối với điều vượt quá trí khôn Mẹ. Đức Maria luôn luôn trả lời bằng một niềm tin toàn diện. Hiệp thông với dân tộc, với thời đó, với Giáo hội tương lai, Đức Maria ca lên kinh Magnificat. Giáo hội nhận ra mình trong bản kinh ấy. Chúng ta hãy hợp nhất với niềm tin của Người. Đức Maria khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa, kiên quyết trong thử thách, đóng vai kẻ tôi tới bệnh cạnh loài người, sống bằng suy niệm và luôn vui sống.
Để hợp với bầu khí Mông Triệu, chúng ta suy niệm về một câu trích trong bản kinh Magnificat tuyệt vời này.
1) Thần trí tôi nhảy mừng
Ca khúc Magnificat giờ đây vang trên thiên quốc với tất cả âm điệu tiết tấu. Nhưng Đức Maria đã hát lên ca khúc ấy lần đầu tiên trong một giai đoạn cuộc đời dưới trần thế của Người, ở khoảnh khắc một mạc khải vừa được hé mở. Đức Maria thoáng nhìn thấy định mệnh nhân bản của mình được thành toàn trong cơ thể và thần trí. Thật vậy, Thiên Chúa mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Maria, ngõ hầu nâng cao con người, ban cho con người phẩm giá thần linh. Sự sống lại vinh hiển giống như hạt thóc vùi trong lòng đất nay hoá thành bông lúa chín vinh quang dưới ánh mặt trời. Trong kinh Magnificat, ngay ở lúc khởi sự mầu nhiệm Nhập thể, Đức Maria đã ca ngợi trước về niềm vui Phục sinh sau này. Trong con người Đức Giêsu, Đức Maria thoáng nhận thấy Thiên Chúa muốn có một lịch sử ấy, định mệnh ấy chỉ có thể là tuyệt diệu. Hơn nữa, đích thân Thiên Chúa đến đổi mới lịch sử thân xác nhân loại bằng cách hướng nó về Tình yêu của Thiên Chúa. Vẫn tiếng la lên vì sung sướng chào mừng lúc khai mạc, sau này trở thành bản thánh ca phấn khởi trong ngày hoàn tất. Cũng vậy, trong đời sống rất thực của chúng ta, trong thực tại xác phàm, mặc dầu đau khổ, chúng ta hãy vui sướng nhận rõ điều gì chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa để Người thánh hoá. Chớ quên rằng thân xác chúng ta được mời gọi để trở nên một cơ thể được ‘Kitô hoá’.
2) Trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc tôi
Đức Giêsu cứu chuộc chúng ta bằng quyền năng Thiên Chúa của Người, Chúa cứu chuộc toàn bộ con người chúng ta cả xác lẫn hồn. Toàn thể thân xác sẽ được cứu chuộc chừng nào chúng ta tham dự trạng thái hiển vinh của cơ thể Đức Kitô. Nhưng không được quên rằng Đức Kitô cứu chuộc chúng ta ngay từ bây giờ. Đức Kitô phục sinh hiện hữu, sống trong trạng thái đặc biệt, Chúa ở trong mỗi chúng ta như linh hồn ở trong mỗi phần nhỏ cơ thể. Những giới hạn của bất cứ vật thể hữu hình nào không còn nữa đỗi với cơ thể Đức Kitô. Kitô hữu kết hợp với Đức Ki-tô thì mang trong mình lời kêu gọi sống lại vinh hiển. Điều này đúng vô cùng đối với Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ cho chúng ta được ‘hợp tác’ với sức mạnh cứu độ của Cơ thể quang vinh Đức Giêsu hiện diện trong chúng ta. Chừng đó, chính chúng ta cũng sẽ ca lên bản kinh Magnificat.
3. Mẹ Lên Trời
Từ tín điều Mẹ hồn xác lên trời, được mừng kính hôm nay, chúng ta rút ra được những kết luận nào.
Kết luận thứ nhất, đó là Mẹ đã được đưa về trời, nơi mà một ngày kia chúng ta cũng sẽ đến.
Thực vậy, sở dĩ Mẹ đã được đưa về trời một cách kỳ diệu vì Mẹ không hề phạm tội, nên thân xác Mẹ không bị huỷ hoại tiêu tan, cũng như thân xác Chúa Giêsu. Thân xác Mẹ trực tiếp đi từ tình trạng dương thế qua tình trạng vinh quang mà không phải nếm mùi mục nát. Sự hiện diện của Mẹ trên trời là lời hứa hẹn cho chúng ta, bởi vì một ngày kia chúng ta cũng sẽ được ở đó với Mẹ.
Tuy nhiên, vì mang thân phận tội lỗi, nên chúng ta sẽ không chuyển trực tiếp từ tình trạng dương thế qua tình trạng vinh quang, nhưng sẽ phải trải qua một thời kỳ huỷ hoại, một thời kỳ mục nát. Chúng ta giống như cây phượng. Khi mùa hè trở về, nó trổ bông đỏ rực. Nhưng khi mùa thu tới, nó bắt đầu rụng lá để rồi chỉ còn lại những cành cây trơ trụi vào mùa đông.
Cuộc sống của chúng ta cũng giống như vậy. Khi mùa thu cuộc đời trở lại, chúng ta mất đi toàn bộ vẻ đẹp thân xác, để rồi sẽ bị rữa thối trong lòng đất lạnh, một khi chúng ta nằm xuống cùng với một cái chết. Thế nhưng khi giờ phút sống lại đã điểm, thì một thân xác mới mẻ và xinh đẹp sẽ nở tươi trên đống tro tàn bụi đất, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: khi gieo một hạt giống vào lòng đất, nó sẽ không mọc lên nếu không bị chết đi. Và hạt giống chúng ta gieo, há chẳng phải là một cây đầy đủ mà sau này sẽ lớn lên sao. Thân xác của chúng ta lúc bấy giờ sẽ như thế nào? Thánh Phaolô diễn tả:
– Thân xác hay chết này sẽ mặc lấy sự không hay chết và thân xác mục nát này sẽ không còn mục nát nữa.
Kết luận thứ hai việc Mẹ được đưa về trời còn là nguồn trợ lực cho chúng ta khi chiến đấu để chiếm lấy niềm vinh thắng mà Mẹ đang vui hưởng.
Vì thế, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến kêu cầu cùng Mẹ.
Douglas Hyde là một đảng viên Cộng sản, chủ bút một tờ báo lớn ở Anh Quốc. Ông đã kể lại sự mình trở về với Giáo hội như sau:
Ngày nọ, tình cờ ông bước vào một nhà thờ Công giáo. Ngồi ở hàng ghế sau cùng, ông đưa mắt quan sát và nhận thấy có một thiếu nữ bước vào, vẻ mặt đầy âu lo. Cô ta đến trước bàn thờ Đức Mẹ, quỳ cầu nguyện một hồi lâu, sau đó đứng dậy ra khỏi nhà thờ. Lúc cô ta đi ngang qua, ông nhận thấy vẻ mặt đầy lo âu khi trước đã tan biến, nhường chỗ cho một vẻ mặt phấn khởi và hy vọng.
Thế là ông cũng mon men đến bên bàn thờ Đức Mẹ và trình bày câu chuyện đời mình, nhưng ông không biết phải bắt đầu như thế nào. Sau này khi nhớ lại, thì hình như ông ta đã nói với Mẹ:
– Lạy Mẹ dịu dàng và đáng yêu, xin hãy tỏ ra nhân từ và khoan dung với con. Nhờ Mẹ giúp đỡ, cuối cùng ông đã được ơn ăn năn trở lại.
Hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ, bởi vì xưa nay chưa từng nghe có người nào kêu cầu Mẹ, mà Mẹ chẳng nhận lời.
4. Cảm nghiệm ơn Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn? Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình. Tứ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ.
Tác động thứ nhất: sự vội vã
Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn
Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca dâng tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ
Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương. Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ
Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta con người được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội và ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
Kiểm điểm đời sống
1. Bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong đời bạn không?
2. Sẵn sàng làm theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, bạn có mong muốn điều này không?
3. Lên trời, dứt khỏi trần gian. Đây có phải là một bước nhảy vọt không? Hay chỉ là tiếp nối của quá trình từ bỏ chính mình trên trần gian?
5. Đức Maria: Địa chỉ trên cao
(GM Giuse Vũ Duy Thống)
Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.
Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung” ca ngợi Đức Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấy mang tên Maria.
1. Đức Maria: một địa chỉ thiết định cho lòng tin
Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.
Không phải thế, mà là kết quả suy tư lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
2. Đức Maria: một địa chỉ thiết thân của đời tín hữu
Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới từ năm 1950, có chi mà quan trọng?
Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là “xe máy” thì nó là “xe máy” dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là “xe đạp”. Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.
Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
3. Đức Maria: một địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời
Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát “Kinh Tin Kính” kết thúc bằng câu quyết tâm “Tin những gì Hội Thánh dạy con”. Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: “Cha nói thánh tướng nào con cũng tin cả”. Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày” “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng? Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.
Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn. Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.
Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng bay về trời.
6. Mẹ lên trời là hy vọng của chúng ta
Tại một số thành phố trong nước Ý có một cách mừng Lễ Mẹ Lên Trời thật đơn sơ nhưng có ý nghĩa: Họ bắt đầu không phải ở nhà thờ nhưng ở đường phố chính. Việc cử hành gồm hai cuộc rước.
Cuộc rước tượng Đức Mẹ bắt đầu từ ngoại ô thành phố tiến vào trung tâm thành phố. Cuộc rước này tượng trưng cho cuộc hành trình của Đức Mẹ từ cuộc sống trần gian tiến về trời.
Cuộc rước khác là cuộc rước tượng Chúa Giêsu qua các đường phố lớn. Ý nghĩa cuộc rước này là Chúa Giêsu đi đón Đức Mẹ khi Đức Mẹ tiến vào thiên đàng.
Giây phút nổi bật là khi hai cuộc rước gặp nhau tại một cổng chào được trang hoàng lộng lẫy. Chúa Giêsu và Đức Mẹ cúi chào nhau ba lần nói lên rằng Chúa Giêsu chào mừng Đức Mẹ tại cổng thiên đàng.
Sau nghi thức này, tất cả mọi người kiệu Chúa Giêsu và Đức Mẹ vào nhà thờ. Ý nghĩa việc rước này là Chúa Giêsu đưa Mẹ Ngài lên toà vinh quang trên trời. Khi mọi người vào nhà thờ thì Thánh Lễ được bắt đầu.
Theo phương diện thần học, Lễ Mẹ Lên Trời nói với chúng ta rằng cả hồn và xác Mẹ Maria đang ở trên thiên quốc. Vì Đức Mẹ không vướng mắc tội lỗi, giống như thân xác Chúa Giêsu, thân xác Mẹ không hư nát. Thể chất trần gian của Mẹ biến sang thể chất thiên đàng.
Theo phương diện thực hành, Lễ Mẹ Lên Trời nhắc nhở rằng chúng ta một ngày nào đó cũng được ở trên thiên đàng cả hồn và xác.
Có khi chúng ta quên rằng chúng ta cũng có thân thể trên thiên đàng. Dĩ nhiên, nó không phải là cái xác hay chết này như là thân thể thiêng liêng giống như thân thể Chúa Giêsu sau khi sống lại.
Nói về loại thân thể của chúng ta trên thiên đàng, chúng ta tìm đọc Thư thứ I Thánh Phaolô gửi cho Corintô: “Kẻ chết sống lại thể nào? Lấy thân xác nào mà đến?” Thánh Nhân so sánh thân xác dưới đất này với hạt giống và thân thể trên thiên đàng với cây lớn lên từ hạt giống đó: “Vật ngươi gieo nào phải là thân hình tương lai, nó chỉ là cái hạt, như lúa mì hay thứ khác chẳng hạn… Thiên Chúa cho nó hình thể nào tuỳ ý, mỗi hạt đều được hình thù riêng… Có hình thể thuộc về trời, có hình thể thuộc về đất. Việc kẻ chết sống lại cũng như thế: đã gieo sẽ mục nát, sống lại rồi thành bất hủ. Gieo xuống là nhục, sống lại là vinh, gieo vào đau yếu, sống lại mạnh khoẻ. Gieo thể xác sinh vật, sống lại thân hình thiêng liêng.” (I Cor 15:36-44).
Lễ Mẹ Lên Trời nhắc nhở chúng ta một điểm thực hành nữa là Đức Mẹ ở trên trời là để giúp chúng ta. Đức Mẹ không ngồi nghỉ, chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa, chờ đợi chúng ta lên trời. Thật ra, Đức Mẹ luôn quan tâm đến mỗi người chúng ta. Đức Mẹ luôn giúp đỡ chúng ta trong cuộc chiến đấu tiến về quê trời. Đức Mẹ trên trời có thế lực để giúp chúng ta.
Đó là tin mừng cho chúng ta khi mừng Lễ Đức Mẹ. Phần thưởng Đức Mẹ nhận lãnh cho cuộc đời phục vụ, hứa hẹn cho chúng ta cũng được thưởng công cho cuộc đời vất vả của chúng ta. Chúng ta chắc chắn được hưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng. Chúa Giêsu đón mừng Đức Mẹ lên trời cũng sẽ chào đón chúng ta về thiên đàng.
Chúng ta cùng cầu nguyện, dùng lời kinh của lễ hôm nay: “Lạy Chúa chí thánh, hôm nay, Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, được đưa về trời. Người là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế. Chúa không muốn Người chịu cảnh hư nát trong mồ, vì đã sinh hạ Con Cha yêu quí là Đấng ban sự sống cho mọi loài.” Xin cho chúng con được cùng Đức Mẹ, một ngày nào đó trên thiên đàng, ca tụng Chúa muôn đời.
7. Niềm an ủi
Hôm nay, chúng ta mừng kính một tạo vật đầu tiên đã được khải hoàn và bước vào quê hương nước trời. Tạo vật ấy chính là Mẹ Maria.
Bầu khí phụng vụ mang một sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh, để rồi nắm giữ vai trò quan trọng nhất, vai trò Nữ vương trời đất, cũng như chiếm lấy một địa vị cao cả nhất, thật gần với Thiên Chúa và trổi vượt trên mọi tạo vật, địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Thực vậy, sau những ngày tháng khổ đau, giờ đây Mẹ được vui hưởng niềm hạnh phúc bất diệt như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
– Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa đã sắm sẵn cho những người yêu mến Ngài.
Trong ngày mừng kính Mẹ hồn xác về trời, chúng ta không phải chỉ ngợi khen và chúc tụng, mà còn phải tìm lấy cho mình một niềm vui mừng và hy vọng.
Thực vậy, kể từ khi Mẹ bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ rất nhiều, bởi vì tình mẫu tử, một thứ tình cảm đẹp đẽ và tinh ròng nhất của trái tim con người, đã được cụ thể hoá nơi Mẹ Maria trước ngai toà Thiên Chúa.
Nó không phải chỉ mang lấy vẻ dịu hiền của tình thương, mà còn mang lấy vẻ uy nghi của quyền năng, nhờ đó Mẹ sẵn sàng ra tay nâng đỡ và trợ giúp chúng ta trên đường lữ thứ trần gian.
Đúng thế, trên đỉnh đồi Canvê, Đức Maria đã trở nên Mẹ của nhân loại, cũng như trở nên Mẹ của mỗi người chúng ta, qua lời trăn trối của của Chúa Giêsu:
– Này là Mẹ con… và này là con Mẹ.
Qua lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã cưu mang chúng ta. Đồng thời, qua những đau khổ phải chịu, nhất là khi đứng dưới chân cây thập giá, Mẹ đã sinh chúng ta trong đời sống ơn sủng. Và bây giờ ở trên trời, với tước hiệu là Mẹ chúng ta, Mẹ vẫn nhớ đến từng người và Mẹ sẽ dùng tình thương của một người mẹ và uy quyền của một vị nữ vương để bầu cử và giúp đỡ chúng ta trước mặt Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nói được rằng:
– Mẹ nắm giữ số phận của mỗi người chúng ta trong lòng bàn tay yêu thương và quyền năng của Mẹ.
Vì thế, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ trong những phút giây hạnh phúc để cảm tạ, cũng như hãy chạy đến với Mẹ trong những tháng ngày đau khổ để xin Mẹ chở che.
Trong cuộc sống dương thế, Mẹ đã trải qua biết bao nhiêu cay đắng, nên Mẹ sẽ hiểu biết và chia sẻ với chúng ta hơn ai hết, bởi vì “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Có khổ đau, thì mới dễ dàng cảm thông với người đau khổ. Nếu chúng ta kêu cầu Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ trợ giúp và dẫn chúng ta đến cùng Chúa.
Douglas Hyde là một người cộng sản, chủ trương tờ nhật báo “Công Nhân” tại Anh, đã trở lại Công giáo trong một hoàn cảnh như thế này:
Sáng hôm ấy, đứng trước cổng một nhà thờ Công giáo, ông ta nhìn thấy một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, khuôn mặt chất đầy những khổ đau. Cô ta bước vào nhà thớ và quỳ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, nhưng khi cô ta ra về, thì dường như những nét khổ đau đã được xoá tan, không còn để lại một dấu vết nào cả.
Tò mò, ông ta cũng bước vào và đến bên tượng Đức Mẹ. Ông ta thắp lên một ngọn nến và quỳ cầu nguyện. Thế nhưng, đầu óc thì trống rỗng, ông ta không thể nhớ nổi một câu kinh mà hồi còn nhỏ ông ta đã thuộc lòng. Cây nến cứ giảm dần, giảm dần. Sau cùng, ông ta nghe như có một tiếng nói thì thầm bên tai, nhưng cũng không được rõ.
Sau khi ra khỏi nhà thờ, ông ta cố gắng nhớ lại. Rồi ông ta đã mỉm cười, bởi vì trong lúc cầu nguyện, ông ta đã khẽ hát một bản tình ca đang thịnh hành lúc bấy giờ:
– Nàng xinh đẹp quá, xin hãy nhớ đến tôi…
Nhưng Mẹ Maria đã thấu suốt cõi lòng ông ta và đã dẫn đưa ông ta về cùng Chúa.
Với tình thương của một người mẹ, Đức Maria sẵn sàng nâng đỡ chúng ta và với uy quyền của một bậc nữ vương, Đức Maria có thể làm được tất cả những gì chúng ta kêu cầu.
Chúng ta vốn thường đọc:
– Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.
Phải chăng đó là chính là niềm an ủi và khích lệ chúng ta gặp được khi mừng kính Mẹ hồn xác lên trời ngày hôm nay?
8. Theo Đức Mẹ lên trời
(GM GB. Bùi Tuần)
Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời.
Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18). Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời:“Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.
Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.
Làm chứng cho Chúa
Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48).
Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.
Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1,8).
Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.
Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện. Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.
Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể. Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.
Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.
Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.
Nhờ Mẹ Maria cầu bầu
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19,26). Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa. Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.
Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.
Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.
Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.
Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.
9. Vinh quang
Ngày lễ Thăng thiên, chúng ta cử hành sự kiện Chúa Giêsu được tôn vinh, còn hôm nay ngày lễ Mông triệu, chúng ta cử hành sự kiện Mẹ Maria được tôn vinh. Chúng ta được lãnh nhận ơn Cứu độ từ Chúa Giêsu, nhưng chúng ta được lãnh nhận Chúa Giêsu từ Mẹ Maria.
Có một câu chuyện kể về cách thức người Da Đỏ Comache đã từng cầu nguyện để cho có mưa “Lạy Thầy Linh vĩ đại, xin nói cho chúng tôi biết chúng tôi đã làm điều gì sai trái, khiến cho ngài tức giận. Xin nói cho chúng tôi biết chúng ta phải làm gì, để ngài sẽ cho mưa xuống một lần nữa, và phục hồi sự sống cho mảnh đất của chúng tôi”. Họ cứ cầu nguyện như thế trong vòng ba ngày, nhưng vẫn không hề có mưa. Trẻ con và người già bắt đầu chết. Thế rồi những người lớn tuổi trên bộ lạc đi lên các ngọn đồi, để lắng nghe tiếng gió thổi, mang theo giọng nói của Thần Linh. Khi trở về, họ nói với dân chúng “Cảnh hạn hán gây ra là do tính ích kỷ của chúng ta. Từ bao năm qua, chúng ta đã lấy đi đủ thứ từ mặt đất, mà không hề trả lại gì cả. Tất cả chúng ta phải làm của lễ toàn thiêu, để dâng lên Thần Linh những tài sản giá trị nhất của chúng ta. Chúng ta phải rải tro trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên địa cầu”.
Dân chúng cảm ơn Thần Linh về thông điệp đó. Nhưng khi trở về nhà, và nhìn vào những tài sản giá trị nhất của mình, họ lại lưỡng lự, và bắt đầu tìm cách thoái thác. Thay vì hy sinh những tài sản giá trị nhất, họ chỉ hy sinh một số thứ khác thay thế vào đó. Bây giờ, một cô bé tên là Miriam, có một con búp bê màu xanh, mà cô bé yêu quý trên hết mọi thứ khác. Vì là một đứa trẻ duy nhất còn sống sót, cô bé nhận ra rằng mình cũng phải hy sinh. Thế là một đêm kia, cô bé bò ra khỏi căn lều, đem theo con búp bê và một cây quy diêm, rồi đi lên đỉnh đồi. Tại đó, cô bé châm lửa đốt con búp bê. Vừa khóc, cô bé vừa nhìn con búp bê biến thành tro bụi. Sau đó, cô bé dùng bàn tay thu gom đống tro lại, và ném lên không trung. Sao cho gió sẽ rải đám tro đó lên mặt đất. Rồi cô bé lăn ra ngủ vùi ngay tại đỉnh đồi. Sáng hôm sau khi thức dậy, cô bé nhìn khắp mặt đất, và thấy mặt đất phủ đầy những bông hoa màu xanh, khắp cả một vùng xa tít tắp mà tầm mắt của cô bé có thể thấy được. Dân chúng rất vui mừng khi nhìn thấy sự kiện xảy ra. Ngay tức khắc, họ nhận ra được điều mình phải làm. Họ cảm thấy xấu hổ vì tính ích kỷ của mình, mỗi người đều lấy số tài sản mà họ đã cất giữ rất cẩn thận, hi sinh đốt đi, và rải đám tro đó lên mặt đất. Một lần nữa, họ bắt đầu cầu nguyện với Thần Linh, và lần này Thần Linh đã nhận lời họ. Chẳng bao lâu, một cơn mưa bắt đầu chút xuống. Khi nhìn thấy sự kiện đó, họ ôm cô bé Miriam, người đã làm cho họ hổ thẹn, vì đã không làm theo yêu cầu của Thần Linh.
Câu chuyện nhỏ này giúp chúng ta hiểu được vai trò của Đức Maria, và nhận ra được tại sao Giáo hội tôn vinh ngài trong ngày hôm nay. Chính thông qua sự hy sinh Con của ngài, mà ơn tha thứ, bình an và yêu thương của Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mặt đất, và mang lại sự sống cho chúng ta, Đức Maria đóng một vai trò sống còn trong của lễ hy sinh đó.
Mẹ đã sẵn lòng đem Đức Giêsu đi vào trong thế giới này. Mẹ hết lòng yêu thương Người, và quý trọng Người vượt lên trên tất cả mọi thứ sở hữu khác. Nhưng khi công trình Cứu Độ toàn dân đòi hỏi rằng chính Đức Giêsu phải hy sinh, thì Mẹ vẫn đứng về phía Người, ngay cả mặc dù nỗi đau khổ giống như một lưỡi gươm sắc nhọn, đã đâm thâu qua trái tim Mẹ.
Hôm nay, chúng ta mừng kính ngày Mẹ được tôn vinh trên trời, có nghĩa là Mẹ được chia sẻ trọn vẹn vinh quang của Đức Kitô. Đây là một ngày dành cho niềm vui và ca ngợi. Mẹ sẽ thúc giục chúng ta phải quảng đại hơn trong việc đi theo Con của Mẹ, và trong việc hy sinh những gì chúng ta quý giá, để mang lại sự sống cho những người khác. Đức Maria được chúc phúc vì Mẹ là mẹ của Đức Giêsu. Nhưng Mẹ còn được chúc phúc hơn vì, giống như cố bé Miriam, Mẹ đã lắng nghe và vâng phục lời của Thiên Chúa. Mẹ sẽ giúp đỡ chúng ta cũng biết vâng phục Lời Chúa, và từ đó, chúng ta được đi theo Đức Giêsu trên đường dẫn tới vinh quang.
Bà Elisabét nói với Đức Maria “Em được chúc phúc nhất trên tất cả mọi phụ nữ”. Quả thật đó là một lời khen ngợi vĩ đại. Lời khen ngợi này nói lên vị trí đứng đầu của Đức Maria. Nhưng điều gì đã xảy ra Mẹ có khước từ lời khen ngợi này một cách nhẹ nhàng, nhưng quy tất cả mọi sự về Thiên Chúa, và về lòng từ ái củ Người đối với Mẹ “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao nhiêu cao cả”.
Có thể chúng ta đã được dạy dỗ rằng sự khiêm tốn bao hàm sự tự đánh giá thấp bản thân mình. Nhưng đức khiêm nhường trái ngược với điều đó. Đây là sự nhận ra điều tốt đẹp nơi bản thân mình với lòng biết ơn, nhưng thừa nhận rằng điều tốt đẹp đó là một ân sủng của Thiên Chúa.
Ngày nay, về mặt tâm lý trị liệu, người ta nhấn mạnh rất nhiều vào lòng tự trọng. Sự tự ti mặc cảm đưa đến tình trạng bất hạnh cho tất cả mọi người, còn lòng tự trọng cao độ đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Chúng ta được hướng dẫn rằng điều quan trọng là cảm thấy bản thân mình tốt đẹp, yêu mến mình, có khả năng để nói rằng “Tôi là người tốt”.
Về một mặt nào đó, đây là một phương pháp tốt. Tự trọng là điều tốt đẹp. Thật quan trọng khi có được một hình ảnh tốt đẹp về bản thân, nhưng sự tự ý thức này phải được xây dựng trên sự thật, nếu không, đó chỉ là một việc xây dựng trên cát.
Chúng ta có lý do để nên có lòng tự trọng cao độ. Mỗi người trong chúng ta đều có thể nói rằng “Tôi có giá trị lớn lao, một nhân cách vĩ đại. Thiên Chúa đã tạo dựng tôi theo hình ảnh Người, Người gìn giữ và yêu thương tôi, vì tôi có tư cách là con cái của Người”. Do đó, chúng ta có quyền cảm thấy hài lòng về bản thân mình được đón nhận mọi sự từ nơi Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta không nên chần chừ trong việc đọc lời kinh thật tươi đẹp và vui mừng của chính Đức Maria “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”.
Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đúng sự thật đối với chúng ta. Chúng ta cũng có mặt tối, khiến cho chúng ta bị sự dữ chế ngự, và vì thế, chúng ta cần được cứu độ. Tâm lý học sẽ không cứu nỗi chúng ta. Tâm lý học lại còn không thừa nhận rằng chúng ta cần được cứu độ. Chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa có thể cứu độ chúng ta. Chúng ta không được e sợ khi nhìn vào khía cạnh tối tăm của bản thân mình.
Sự tự trọng không đúng cách làm cho chúng ta bối rối ngay với chính mình, và do đó khiến chúng ta chỉ tập trung vào bản thân. Mặt khác, lòng tự trọng đích thực lại giúp chúng ta biết quên mình, và làm cho chúng ta biết yêu thương hơn, có nhiều khả năng tiếp cận với người khác hơn. Chúng ta nhận thấy điều này nơi Đức Maria.
Sau khi nghe được những lời khen ngợi tuyệt vời của bà Elisabét, Mẹ có thể trở về nhà ngay tức khắc, và sự phô bày mình ra dưới ánh nắng của sự tự khen ngợi mình, mong đợi người khác phục dịch mình. Nhưng thay vào đó, Mẹ ở lại với người chị họ lớn tuổi trong vòng ba tháng, để giúp đỡ bà trong thời kỳ mang thai.
Hôm nay, chúng ta ca ngợi vinh quang của Đức Maria. Bởi vì Mẹ đã chia sẻ cuộc đời, sự thương khó, và sự chết của Đức Giêsu khi còn tại thế, điều này phù hợp với việc Mẹ được chia sẻ vinh quang của Người trên Nước Trời. Nhưng chúng ta không được nghĩ rằng mọi sự đều dễ dàng đối với Mẹ. Sự thật gần như trái ngược lại. Mẹ cũng phải sống cuộc đời của mình trong bóng tối đức tin. Đối với Mẹ, không hề có con đường tắt nào cả. Mẹ đã không chỉ lắng nghe lời Thiên Chúa, mà còn thực hành nữa.
Chúng ta cũng được mời gọi chia sẻ vinh quang của Chúa Giêsu. Đức Maria người mẹ thiêng liêng của chúng ta, sẽ giúp đỡ chúng ta trong những giây phút chán nản và thất bại. Mẹ ở trên trời không có nghĩa là Mẹ không thể giúp đỡ chúng ta trên trái đất này. Nói một cách chính xác, chính vì hiện nay Mẹ đang được ở cùng Thiên Chúa, mà Mẹ càng có thể giúp đỡ chúng ta hơn nữa.
Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:
– «Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài».
– «Con đã nói phản lại sự thật rồi! – Vị bề trên trả lời – Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường.
«Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không hay biết. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh».
Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứt khoátmục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tuỳ thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v… Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái này hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!
Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ «cao cả» đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm toả của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc – cho dù là vĩnh cửu – của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất. Đúng như lời Đức Giêsu nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.
Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Viec Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Đức Giêsu là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.
12. Thiên Chúa chiến thắng Con Rồng đỏ
(Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
Phụng vụ của ngày đại lễ Mẹ Lên Trời giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh nổi bật và đối lập nhau, được Sách Khải Huyền mô tả, đó là hình ảnh “con rồng đỏ” và “người phụ nữ”. Hai hình ảnh này nói với chúng ta điều gì? Chúng ta cần khám phá ý nghĩa của chúng trong thánh lễ này.
1. Hình ảnh con rồng đỏ
Trước hết là hình ảnh con rồng đỏ. Đối với văn hóa Việt Nam, con rồng là một linh vật bậc nhất trong bốn con vật quan trọng: long, ly, quy, phượng. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, của sự cao trọng và phú quý, đến từ thần linh. Người Việt tự coi mình là “con rồng, cháu tiên”.
Nhưng đối với Kinh Thánh, rồng là một quái vật, là sức mạnh của Ma quỷ. Sách Khải Huyền mô tả sự xuất hiện của nó như một sức mạnh khủng khiếp, ích kỷ vô cùng và bạo lực man rợ (cf. Kh 11,12.1-6a). Ở đây, thánh Gioan muốn ám chỉ tới những quyền lực thuộc hoàng đế La mã, từ Nêron (37-68) đến Đômitianô (81-96) trong những thế kỷ đầu. Đó là những thế lực chống Kitô giáo và bách hại Giáo Hội với một sức mạnh vô tận. Đối diện với thế lực đó, Đức Tin và Giáo Hội được ví như một người phụ nữ “chân yếu tay mền”, không vũ khí, và xem ra không có khả năng để sống sót, lại càng không có khả năng để chiến thắng.
Thế nhưng, tác giả sách Khải Huyền cho biết số phận cuối cùng của con rồng đỏ là thất bại và bị tiêu vong. “Người phụ nữ yếu ớt” đó đã chiến thắng, không bằng sức mạnh của quyền lực, của quân sự, của súng đạn, của ích kỷ và thù hận, nhưng bằng tình yêu, sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, đế quốc La Mã “trở lại” và đón nhận Đức Tin Kitô giáo. Nói như nhà văn Henryk Sienkiewicz trong cuốn tiểu thuyết lừng danh Quo vadis: Các hoàng đế Rôma lần lượt ngã xuống và bị quên lãng, còn Phêrô và Giáo hội đứng lên và tồn tại mãi với thế giới.
Theo một giải thích khác, “con rồng đỏ” cũng là hình ảnh của các thể chế độc độc tài duy vật chất, phi nhân bản và duy quyền lực trong các thế hệ loài người. Chẳng hạn như chế độc tài Đức quốc xã và chế độ độc tài cộng sản Stalin ở Nga, Trung Quốc và Việt nam. Một thời, các thể chế này có trong tay tất cả mọi quyền lực, khí giới và sức mạnh. Chúng xâm nhập khắp mọi nơi, đến tận hang cùng ngõ hẻm. Sống dưới sự thống trị của các thể chế đó, thật là khó khăn để nghĩ tới Thiên Chúa và giữ các giới răn của Người. Nhưng lịch sử Châu Âu chứng kiến chủ nghĩa cộng sản tan rã, bức tường Bá linh sụp đổ, “nước Nga trở lại và Trái Tim Mẹ toàn thắng”. Thiên Chúa chiến thắng sự ác. Tình yêu và sự thật mạnh hơn hận thù, bạo lực và ích kỷ của con người!
2. Hình ảnh người phụ nữ
Hình ảnh thứ hai lôi kéo sự chú ý của chúng ta đó là hình ảnh của “người phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 11,19a). Hình ảnh này có nhiều ý nghĩa khác nhau.
Theo các nhà chú giải kinh thánh, trước hết đó là hình ảnh về Đức Maria, Mẹ mặc áo mặt trời, có nghĩa là Mẹ mặc áo của Thiên Chúa, hoàn toàn của Thiên Chúa. Mẹ sống trong Thiên Chúa, hoàn toàn được bao phủ và thấm nhuần bởi ánh sáng Thiên Chúa. “Đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” có nghĩa là Mẹ được bao quanh bởi mười hai chi tộc Israel, bởi tất cả Dân Thiên Chúa, bởi tất cả sự hiệp thông của các thánh. Và “chân đạp mặt trăng”, “trăng” thuộc về đêm tối, hình ảnh của sự chết và sự diệt vong, diễn tả Mẹ đã chiến thắng sự chết và sự diệt vong. Như thế, Mẹ hoàn toàn được mặc áo sự sống, được lên trời cả hồn cả xác trong vinh quang của Thiên Chúa. Đây là một tín điều được định tín bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII năm 1950.
Ý nghĩa thứ hai của hình ảnh “người phụ nữ” đó là biểu tượng Giáo Hội, một Giáo Hội đang lữ hành trên trần thế, một Giáo Hội có sứ mạng như người phụ nữ, một lần nữa, cưu mang và sinh hạ Chúa Kitô cho thế giới trong sự chuyển dạ và đau đớn, một Giáo Hội đau khổ và luôn luôn bị bách hại bởi con rồng đỏ. Nhưng Giáo Hội đó được nuôi dưỡng và sống nhờ Thiên Chúa qua Bí Tích Thánh Thể, nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện và hiệp thông với nhau. Sự hiện diện của Thiên Chúa và lời cầu bầu của Đức Maria là bảo chứng để chống lại mọi thứ độc tài, hận thù và ích kỷ của con người.
Như thế, lễ Mẹ Lên Trời đưa chúng ta tới chân trời hy vọng và mời gọi chúng ta can đảm, đừng sợ và tin tưởng vào tương lai vì cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng con rồng đỏ. Ơn cứu độ sẽ được thực hiện. Đức tin là sức mạnh của thế giới! Chúng ta hãy xác tín như Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ, sống hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho tha nhân, bằng sự từ bỏ và quyên mình phục vụ anh em. Đó là con đường đưa chúng ta tới hưởng hạnh phúc đích thực với Mẹ trên trời. Và cùng với Bà Êlisabet, chúng ta hãy dâng lời tung hô: Mẹ được chúc phúc giữa những người phụ nữ. Lạy Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử, Amen!
13. Thăm viếng và Bài ca Ngợi khen
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Cuộc gặp gỡ giữa hai phụ nữ
Trong câu chuyện Truyền tin, Thánh Luca vừa trình bày Đức Maria như một Kitô hữu tiên khởi khi nhiệt thành đáp trả lời Thiên Chúa, giờ đây, ông lại cho chúng ta thấy Maria chỗi dậy lên đường, hình ảnh của Giáo Hội ra đi đem Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho mọi người.
Sứ thần Chúa kết luận: “Kìa Êlisabét, chị họ của bà, tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm muộn…”. Biết được tin này, Maria “vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”, cũng như chẳng bao lâu sau, các mục đồng vội vã đi xem chuyện gì đã xảy ra theo như lời sứ thần đã báo. Theo cách diễn tả rất gợi hình của L.Legrand, chúng ta đi từ “người tín hữu nhận lãnh Lời (TC) đến người “nữ tỳ” hành động hay đúng hơn qua người nữ tỳ đó, Lời (TC) hành động” (“Truyền tin cho Maria”, Cerf, 1981, Lectio divina số 106, tr-222). Trong Maria Lời (TC) đã bắt đầu lên đường, và cuộc hành trình này sẽ dẫn Ngài tới mọi bờ cõi trái đất.
Tại sao Maria đến nhà chị họ của mình? có lẽ là vì bác ái: để giúp Êlisabét? Thánh Luca không thoả mãn tính tò mò của chúng ta vì khi kể chuyện này, điều ngài quan tâm không phải là một giai thoại, nhưng là sự mặc khải nhân dịp hai người mẹ tương lai gặp nhau. Về điều này L.Legrand đã nhận xét rất đúng: “Khi đọc chính bản văn hình như chúng ta có thể tin rằng Maria chỉ đến đó để nhận lời chào của Êlisabét và hát bài ca ngợi khen” (Sđd, tr.219).
2. Và cuộc gặp gỡ giữa hai đứa con họ đang cưu mang
Khi vào nhà Giacaria, Maria truyền đến cho chị họ mình lời chào bà đã nhận từ sứ thần. Lời chào của maria là dấu nối cho tiến trình. Khi lời chào này vang lên bên tai Êlisabét, con trẻ trong lòng bà nhảy mừng ngay trước khi bà mở miệng; theo tiếng Hylạp, từ “nhảy mừng” có nghĩa là: “Nhảy bật lên”, “nhảy lên”, “nhảy múa”.
Như thiên thần đã báo tin cho Giacaria, Gioan được “đầy Thánh thần ngay trước khi sinh” (1,15) nên Gioan nhận ra thời buổi mới đã ló dạng và thấy trước sứ mạng của mình. Bởi đó, ông đã nói tiên tri về sự xuất hiện của Đấng muôn người trông đợi, không phải bằng lời nói mà bằng cách nhảy mừng.
Được “đầy Thánh Thần” nên Êlisabét hiểu ý nghĩa của việc con bà nhảy mừng trong lòng và cả ý nghĩa của cuộc gặp gỡ mà bà đang trải qua.
Khi cất tiếng thán phục, Êlisabét nhìn nhận Maria và “đứa con trong lòng” được Thiên Chúa chúc phúc.
Rồi, Êlisabét tuyên xưng đức tin khi công bố đứa con của cô em họ chính là Đấng Thánh Tv109,1 đã loan báo: là Đức Kitô, và bà chào Maria tước hiệu “Mẹ Chúa tôi”.
Cuối cùng sau khi đã biểu dương chức vị là Mẹ, bà ca tụng lòng tin của Maria bằng công thức chúc phúc: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”; “đây là mối phúc đầu tiên của Tin Mừng, mối phúc Thanh Luca dành cho một tên khác của Maria: “Người đã tin” (Cahiers- Evangile, số 77, tr.45).
3. Cuộc gặp gỡ để Maria ca tụng Thiên Chúa thực hiện những lời đã hứa
Bài ca “Ngợi khen” là một suy niệm chứa chan tình cảm của Maria về tất cả những gì Thiên Chúa vừa thực hiện nơi Mẹ. Nó thực sự đánh dấu: “theo lối văn kể chuyện… một câu hỏi khiến ai đang hành động cũng dừng lại trong giây lát, nó giống như đoạn hát sôlô trong một vở nhạc kịch opéra, hoặc đoạn ca đoàn hát xen vào trong một vở bi kịch cổ điển. Từ thời xưa, người ta đã lưu ý rằng câu chuyện sẽ gắn bó hợp lý hơn nếu đọc thẳng từ câu 45 qua câu 56. Rất có thể bài ca này có nguồn gốc riêng không có trong câu chuyện nguyên thuỷ, nhưng đã được thêm vào sau này. Khi đặt bài ca trên miệng của Maria, Lu ca cho chúng ta thấy rằng hình ảnh đẹp về Mẹ”. (“Cahiers- Evangile”, số 77, tr.45).
Các câu 45 và 47 chi phối tất cả phầ còn lại của bài ca: đó là một bài ca tạ ơn.
Liền sau đó là lý do tạ ơn:
a/ Trước hết, vì những ký công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ: Thiên Chúa đã can thiệp làm cho Mẹ trở nên “Mẹ Chúa”. Ở đây Luca diễn tả văn bản đầy cảm hứng này qua sự đối lập đầy lòng khiêm tốn của người “nữ tỳ” và sự cao cả của Đấng “quyền uy” đã thực hiện những điều kỳ diệu.
b/ Nhưng cũng vì những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi dân nghèo. Và ở đây, bài ca “nhẹ nhàng tự nhiên chuyển từ cá nhân (Maria) tới tập thể (Israel); từ sự nghèo khó của Maria (1,48) tới dân nghèo (1,52); từ người nữ tỳ (1,48) tới Israel tôi tớ (1,54) (“Cahiers- Evangile”, số 77, tr.47).
Những kì công này là gì? Đó là sự sáng tạo, là phép lạ của cuộc xuất hành, là Lề luật, nhưng trên hết đó là kỳ công của đã hoàn tất nơi Maria: sự Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, nơi Người Con này Thiên Chúa hoàn tất mọi lời đã hứa.
Đón nhận Chúa Cứư Thế đến với lòng tin tưởng không phải là một giáo thuyết, nhưng là một sức mạch chuyển lay nhằm thay đổi và cứu độ thế giới. Ở đây, Maria xuất hiện như: “người phát ngôn về sự đảo ngược tình thế. Sự đảo ngược này là một phần trọng yếu của Tin Mừng”. (Cahiers- Evangile, số 77, tr.48).
Ngày 1.11.1950 Đức Thánh cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời như sau: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiêm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”. Đặc ân hồn xác lên trời vừa như hoa trái vinh quang của trọn vẹn cuộc đời hoàn toàn thuộc về Chúa, vừa là kết thúc và bao gồm mọi đặc ân Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria. Khi tuyên dương công trạng đầy tràn của Mẹ Maria bầng việc triệu vời Mẹ về trời, Thiên Chúa đã biểu dương chính hồng ân Chúa ban cho Mẹ. Và như vậy Thiên Chúa muốn đề cao Mẹ Maria như thành quả tuyệt vời có một không hai của ân sung, dể mọi người ở mọi thời ngợi khen Mẹ diễm phúc, và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng chí thánh chí tôn đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả.
1. “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”
Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần đã lớn tiếng tuyên xưng thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ Maria. Thiên chức Thánh Mẫu cao cả giờ đây đang bày tỏ ra nơi chính con người thiếu nữ Maria bằng xương bằng thịt, bình thường, giản dị và khiêm nhường thẳm sâu. Chỉ bằng việc có mặt khi đến thăm và chỉ bằng một lời chào đơn sơ của Đức Maria, bà Êlisabét lại nhận ra thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng cả hồn cả xác của mình.
1.1 Mẹ Thiên Chúa bằng tâm hồn
Trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một người phụ nữ đã lên tiếng nói với Chúa: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm (Lc 11,27). Thuộc giới phụ nữ và trong tư cách làm mẹ. người phụ nữ ở đây cảm phục và yêu mến Chúa Giêsu bao nhiêu, thì lại muốn đề cao và hết lòng ca ngợi hồng phúc của người mẹ đã sinh ra Chúa bấy nhiêu. Đó là cái nhìn thường tình. Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cần phải vượt lên trên quan niệm tự nhiên mới có thể đánh giá được hồng phúc làm Mẹ của Đức Maria, và hồng phúc đó trước hết và cốt yếu là ở trong tâm hồn: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”.
Một lần kia Mẹ Maria và anh em họ hàng đến thăm Chúa Giêsu và khi nghe biết thế, Chúa Giêsu đã đề cao Mẹ Maria trong chiều sâu thẳm của thiên chức Thánh Mẫu: “Mẹ tôi và anh em tôi, chinh là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,2) Như vậy căn bản thiên chức Thánh Mẫu của Đức Maria, không chỉ do ngài được làm Mẹ Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người – tại tâm hồn của Mẹ đã hoàn toàn mở ra cho lời Chúa, và lời Chúa thành sự sống và lẽ sống của Mẹ. Mẹ Maria đã cưu mang lời Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Lời trong thân xác. Thán Augustinô còn nhận định tư cách môn đệ nơi Đức Maria (Mẹ trong tâm hồn) trổi vượt hơn tư cách làm mẹ nơi Đức Maria (Mẹ trong thân xác).
1.2. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Khi Lời Thiên Chúa đã đi vào và thấm nhuần trọn vẹn tâm hồn Đức Maria tới mức sung mãn, thì Lời Thiên Chúa đi vào trong thân xác vô nhiễm của Đức Maria. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa theo một nghĩa trọn vẹn (cả hồn xác.). “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người” Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng con người toàn diện, cả hồn lẫn xác. Có nghĩa là hồn xác Mẹ vốn đã thuộc về Chúa, dành riêng cho một mình Chúa. Và như vậy thân xác Mẹ không phải hư nát là dấu thuộc về trần gian cát bụi. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác. Đó là điều đã được tiền định do ý định khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể.
2. “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”
Trong ngày Truyền tin, Đức Maria đã thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, một lời xin vâng toàn vẹn và tuyệt hảo, bao gồm cả quả khứ hiện tại và tương lai. Mẹ đã không ngừng “xin vâng” với mọi lời Thiên Chúa đến với Mẹ từ trước đến nay. Và giờ đây tiếng xin vâng thết ra ngoài miệng là âm vang và kết quả của tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa” là một lời xác định rằng: từ trước đến nay và mãi mãi sau này, tôi là nữ tỳ của Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa cả hồn xác trong mọi lúc, là một cách giải thích đặc ân Vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria.
2.1 Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội
Vô nhiễm nguyên tội là không mắc tội nguyên tổ. Có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai trong lòng thân mẫu, con người (hồn xác) của Mẹ hoàn toàn đóng kín, không một kẻ hở nào cho tội lỗi và cho tất cả những gì thuộc trần gian đã bị tội lỗi làm hư thối. Mẹ cũng hoàn toàn đóng kín với chính bản thân của mình, cái “tôi” của mình. Đóng kín với tất cả, để Mẹ có thể trọn vẹn mở ra cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Đó là đặc ân Vô Nhiễm của Mẹ Maria. Với đặc ân này, Mẹ Maria dù vẫn sống cuộc đời trần thế của một con người, Mẹ có thể qui hướng tất cả và trọn vẹn từng chi tiết của bản thân và từng giây phút của đời sống về cho Chúa. Nói cách khác, đặc ân Vô Nhiễm ban cho Mẹ Maria có khả năng không ngừng thuộc về Chúa cả hồn lẫn xác. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác để mãi mãi thuộc về Chúa.
2.2 Mẹ Maria trọn đời đồng trinh
Hội Thánh tuyên xưng Mẹ Maria trọn đời đồng trinh trước khi, đang khi và sau khi sinh Chúa Giêsu. Và Phụng Vụ đã giải thích như sau: “Khi Người giáng sinh, đức đồng trinh của Thánh Mẫu đã không vì thế mà bị tổn thương, nhưng đã được thánh hiến” (Lời nguyện tiến lễ, lễ chung Đức Mẹ). Đức đồng trinh của Mẹ rất thánh không thể được nhìn theo thường tình mà phải được nhìn theo đức tin, nghĩa là như ý định nhiệm mầu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đồng trinh trọn đời có mục đích là để con người toàn vẹn của Mẹ, cả hồn cả xác, hoàn toàn thuộc về Chúa, không sứt mẻ, không biến chất, trái tại luôn luôn nguyên tuyền và mãi mãi toàn vẹn. Do đó khi Con Một Thiên Chúa được thụ thai và được sinh ra bởi Mẹ, thì không những không làm tổn thương hồn xác nguyên tuyền cua Mẹ, mà trái tại còn làm cho hồn xác thuộc về Chúa hơn nữa. Thuộc về Chúa trọn vẹn hồn xác nguyên tuyền và suốt cả cuộc đời từng giây từng phút như vậy, nên việc Mẹ được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác là kết quả đương nhiên và hợp tình hợp lý.
Kết luận
Con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác, là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lc 2,9-5). Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình. Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.
Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi tại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến.
Bài đọc 1: Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ, hình ảnh tượng trưng là con mãng xà (con rắn của sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia). Như người nữ trong thị kiến, Giáo Hội phải trải qua đau khổ và bách hại. Những vần thơ cuối trong bài đọc một, ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và Đức Kitô.
Là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Maria là trung tâm của trận chiến giữa Thiên Chúa và những quyền lực sự dữ, mà bài đọc trích sách Khải Huyền nói đến. Cho nên, thật hoàn toàn phù hợp khi Mẹ cùng được thông phần vinh quang chiến thắng (qua biến cố Mẹ lên trời).
Bài đọc trích sách Khải Huyền rất có ý nghĩa trong việc khích lệ các Kitô hữu tiên khởi, những người đang trải qua đau khổ và bị bách hại lúc bấy giờ. Bài đọc cũng khẳng định chắc chắn rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Điều này cũng sẽ khích lệ chúng ta. Thiên Chúa dành cho Mẹ Maria một sự quan tâm đặc biệt. Người cũng sẽ quan tâm, chăm sóc chúng ta. Người không tránh cho ta khỏi phải chạm trán với sự dữ, nhưng Người sẽ giúp chúng ta vượt thắng được chúng.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu là Adam mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Người, đã phục hồi cho chúng ta những ân sủng đã bị lấy đi bởi sự bất tuân phục của Adam thứ nhất. Giáo Hội nhìn thấy nơi Đức Maria như Evà mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Mẹ trước Thiên Chúa, đã xóa bỏ những thiệt hại đã gây nên bởi sự bất tuân phục của Eva thứ nhất.
Trong ngày Truyền tin, Mẹ đã nói: “Việc ấy xảy ra cách nào (…). Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,34a.38). Mẹ đã đón nhận công việc mà Chúa giao phó cho Mẹ. Ngay cả khi Mẹ không thể nào thấu hiểu hết những ẩn ý trong đó, Mẹ vẫn cứ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho những sự trợ giúp cần thiết.
Ngày hôm nay, biết bao người đang tìm kiếm sự thành toàn và hạnh phúc qua việc “thực hiện chính mình”. Họ tin rằng hạnh phúc hệ tại ở chỗ không bị ràng buộc, cam kết, không phải chịu trách nhiệm về điều gì cả. Đức Maria là một mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta, bởi vì cuộc sống áp đặt trên ta hàng loạt những bổn phận, bổn phận với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận bổn phận như Đức Maria đã làm, có thể sẽ không tìm thấy hạnh phúc và sự thành toàn trong cái nhìn trần thế, nhưng trong cái nhìn của Thiên Chúa thì họ thực sự đã đạt được.
Bài Tin Mừng: Sau biến cố Truyền Tin, Mẹ có quyền nghỉ ngơi và tập trung lo cho chính mình. Thế mà thay vào đó, Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà chị họ mình là Elizabeth, người cũng đang chờ đợi sự chào đời của đứa con. Cuộc viếng thăm của Mẹ là một nghĩa cử quý báu đối với Elizabeth. Nhưng Mẹ cũng nhận lại được lợi ích từ cuộc viếng thăm này. Đây cũng là điều thường tình trong mọi cuộc viếng thăm. Khi chúng ta đến thăm ai, chúng ta cho rằng bản thân mình đã làm một việc tốt cho người đó. Điều đó đúng. Nhưng chính chúng ta cũng được lợi, ít là chúng ta học được nơi người khác cách thức đối phó với những tình huống khó khăn như thế nào.
Elizabeth dùng những từ ngữ tốt đẹp để khẳng định với Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Đề tài những ai tin được chúc lành là đề tài trung tâm của Tin Mừng.
Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản chỉ là tin mà thôi, nhưng là phải tin và sống theo niềm tin ấy. Đức Maria được chúc phúc, không đơn giản vì Mẹ đã tin, nhưng vì Mẹ đã hành động theo đức tin. Niềm tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề tình cảm. Đó là điều đã được biến đổi để trở thành hành động.
Đức Maria là môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Chúa Giêsu. Điều này giải thích tại sao Giáo Hội đề cử Mẹ như mẫu gương cho mọi người chúng ta và tại sao chúng ta lại tôn vinh Mẹ trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc như Đức Maria, nếu chúng ta lắng nghe Lời Chúa và thực hành lời Người.
16. Trận chiến chống lại sự dữ
Ngày Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ. Hình ảnh con mãng xà tượng trưng cho quyền lực của sự dữ (con rắn trong sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia).
Người phụ nữ đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con, hình ảnh thông thường của quá trình hình thành một thế hệ mới. Con mãng xà tiến đến người phụ nữ với ý định nuốt ngay con của bà. Nhưng con bà được đưa ngay lên cho Thiên Chúa, ám chỉ sự lên trời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đánh bại con mãng xà và đã ngự trị bên hữu Thiên Chúa. Trong khi đó, người phụ nữ (Giáo Hội) trốn vào trong sa mạc, nơi đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, giống như dân Israel thuở xưa. Những vần thơ cuối là lời ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và của Đức Kitô.
Khi thị kiến này được viết ra, như người phụ nữ trong thị kiến, Giáo Hội đang trải qua đau khổ và bị bách hại, và phải đi vào trong hoang mạc để trốn thoát. Bài đọc có ý nghĩa khích lệ các Kitô hữu tiên khởi bằng lời xác quyết rằng Thiên Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng. Điều đó cũng khích lệ chúng ta ngày hôm nay.
Mặc dù “người phụ nữ” chủ yếu tượng trưng cho Giáo Hội, nhưng luôn được liên kết với Đức Maria. Là Mẹ của Đấng Mêsia, Mẹ là trung tâm của cuộc chiến giữa Thiên Chúa và quyền lực của sự dữ. Bởi thế, thật hoàn toàn thích hợp khi Mẹ thông phần trong chiến thắng của Con Mẹ (qua biến cố Mẹ lên trời).
Hình ảnh chứa đựng trong sách Khải Huyền không phải là một hình ảnh xinh đẹp. Thật sự, ý tưởng con mãng xà mười sừng bảy đầu đang chực sẵn trước người phụ nữ, để khi bà sinh con xong, nó sẽ nuốt lấy đứa trẻ, cũng thật khủng khiếp. Chúng ta phải nhớ rằng cảnh tượng mô tả ở đây mang tính biểu tượng cao. Nó diễn tả điềm báo trước đầy kịch tính trong sách Sáng Thế, mối thù được đặt giữa con rắn và người phụ nữ. Người phụ nữ đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến với những quyền lực sự dữ, biểu tượng là con mãng xà. Nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa, người phụ nữ đã chiến thắng.
Hầu hết các bức tượng chân dung về Đức Maria đều diễn tả hình ảnh Mẹ Maria như một nữ sinh xinh xắn dịu dàng, Đấng dường như không hề động đến thế lực của sự dữ trần gian ; tiếng kêu la từ xa thẳm phát ra nơi người phụ nữ đang đối đầu với con mãng xà và đã chiến thắng. Dù sao hình ảnh thứ hai mới miêu tả được sự thật quan trọng nơi Đức Maria. Đức Maria phải đối đầu với con mãng xà. Mẹ đã phải trải qua cơn đau đớn của người phụ nữ sinh con. Chẳng bao lâu sau khi sinh con, Mẹ phải lẩn trốn sang Ai cập bởi vì bạo chúa Hêrôđê muốn tìm giết Con Mẹ. Tâm hồn Mẹ như bị lưỡi đòng đâm thâu với những đau khổ trên đồi Canvê khi chứng kiến sự sống Con Mẹ đang bị lấy đi. Đây là câu chuyện về Đức Maria được thuật lại trong Tin Mừng.
Như Đức Kitô là Adam thứ hai, thì Đức Mẹ cũng được xem là Eva thứ hai. Nhưng không như Eva thứ nhất, Mẹ đã hằng vâng phục Thiên Chúa. Bởi thế, Mẹ là ngọn hải đăng hy vọng cho chúng ta, bởi vì Mẹ thoát khỏi nanh vuốt của mãng xà và đã được đưa về trời. Vai trò trung gian của Mẹ cho chúng ta niềm tin tưởng. Gương mẫu của Mẹ mang đến cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục chiến đấu.
Có rất nhiều nỗi đau, thống khổ và bạo lực trên thế giới. Tất cả chúng ta đều bị tổn thương bởi chúng. Và chúng ta cũng phải chiến đấu chống lại tội lỗi. Và rồi sự dữ lớn nhất cuối cùng mà chúng ta phải đánh bại đó là sự chết.
Như Chúa Giêsu, Đức Maria thu phục những bạo lực, biến đổi nó, để chuyển đổi thành tình yêu và tha thứ. Đây là chiến thắng của tình yêu vượt trên mọi quyền lực huỷ diệt. Không có gì ngoài tình yêu nơi Mẹ Maria. Hãy sống tràn đầy tình yêu khi chúng ta đang trải qua những giai đoạn khó khăn.
17. Thông phần vào vinh quang của Con Mẹ
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta kính nhớ việc Đức Maria hồn xác lên trời, nơi đó, Mẹ được thông phần trọn vẹn vào vinh quang của Chúa Giêsu Con Mẹ, Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha. Tất cả hồng ân nơi Mẹ đều đến từ mối tương quan của Mẹ với Chúa Giêsu. Chúng ta không thể hiểu được về Mẹ hoặc nhận định đúng về vai trò của Mẹ trong Giáo Hội, nếu không đặt nền tảng này trong tâm trí ta.
Có một câu chuyện kể về một người phụ nữ rất thích tranh vẽ, tên bà là Adrienne. Ngày nọ, trong một cửa hàng đồ cổ nhỏ bé nơi thôn dã, bà tiến đến một bức tranh nhỏ mà bà tin rằng đó là bức chân dung tự hoạ của một bậc thầy hoạ sĩ vĩ đại. Tự nhiên, bà cảm thấy vui sướng vì phát hiện này của mình. Ngay tức khắc, bà biết rằng rồi sẽ có nhiều rắc rối đến với bà.
Nghĩ rằng bảo tàng viện quốc gia sẽ rất chú ý đến phát hiện này của bà, bà gửi những tấm ảnh chụp bức tranh đến các tác giả kiệt xuất về nghệ thuật trong nước. Thật quá đỗi ngạc nhiên đối với bà vì họ chẳng hề quan tâm, hầu hết các nhà chuyên môn chẳng chút bận tâm để đến xem bức tranh khi nó được triển lãm tại một phòng trưng bày công cộng. Giám đốc phòng triển lãm quốc gia tuyên bố chắc nịch rằng bức tranh đó không phải là nguyên bản.
Nhưng Adrienne không đầu hàng. Bà hết sức cố gắng có thể. Bà đem bức tranh đi kiểm chứng bằng tia X quang tại phòng thí nghiệm của cảnh sát, và dưới sự phân tích của tia X quang, tên viết tắt của bậc thầy hội hoạ hiện dần lên trên những lớp màu. Bà lập tức gửi ngay kết quả kiểm định cho một trong những nhà chuyên môn. Ông lịch sự bày tỏ sự quan tâm nhưng vẫn trung thành với nhận định trước đây : bức tranh này không phải là nguyên bản.
Bà tiếp tục nghiên cứu và đào sâu lịch sử, và đã phát hiện được những chứng cớ giúp xoá đi tất cả những nghi ngờ để khẳng định được là bà đúng. Cuối cùng, một buổi lễ long trọng đã diễn ra tại Viện hàn lâm nghệ thuật để ca ngợi bà. Nếu không có những nỗ lực, bền chí và lòng kiên định của bà, bức tranh sẽ không bao giờ được đưa ra ánh sáng.
Chúa Giêsu là chân dung tự hoạ của Thiên Chúa. Nhưng nhờ Đức Maria mà Người đã được hạ sinh giữa loài người chúng ta. Đức Maria đã chăm sóc nuôi nấng Người trong suốt những năm Người sống ẩn dật, không ai biết đến, và chẳng ai nhận ra được Người. Và cuối cùng, khi Người bước ra từ trong bóng mờ, để bắt đầu cuộc sống hoạt động công khai, Người cũng chẳng được toàn thể mọi người hoan hô đón nhận. Thực vậy, giới lãnh đạo tôn giáo từ chối tin vào Người. Nhưng Mẹ Maria vẫn hằng tin tưởng vào Người, giữ vững quan điểm về Người cho đến cùng.
Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, phục hồi vinh quang cho Người, “Thiên Chúa siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,9). Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Thế nên, Đức Maria chẳng lẽ lại không thông phần với chiến thắng vinh quang của Con Mẹ sao. Thật chính đáng, điều mà chúng ta cử hành hôm nay, tán dương Mẹ Maria, cô thôn nữ khiêm nhường làng Nazareth.
Mỗi người chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như trong tiệc cưới Cana, Đức Maria vẫn tiếp tục cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Mẹ vẫn giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu giữa bản năng con người với phẩm giá thần linh, và để sống một cuộc đời phù hợp với phẩm giá cao cả ấy. Với sự trợ giúp của Mẹ, và với ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta hy vọng được cùng thông phần vinh quang với Mẹ và với Con Mẹ trên Nước Trời.
18. Đức Maria Đồng Trinh, Hồn Xác Lên Trời
Kinh Thánh im lặng về những ngày sau hết của cuộc đời Mẹ Chúa. Sau lời trối Chúa Giêsu trao Mẹ cho Gioan thì “từ giờ đó, môn đệ này đã lãnh nhận Mẹ Chúa về nhà mình (Ga 19,27). Sách Công vụ nói đến việc “Maria, Mẹ Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đồng tâm nhất trí cầu nguyện” (Cv 1,11) để nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu về trời, Mẹ cũng rút vào âm thầm cầu nguyện và suy niệm những kỷ niệm đã ghi trong lòng” (Lc 2,51). Mẹ không còn xuất hiện, để các tông đồ lãnh nhận sứ mệnh của mình trước mặt thế gian như Chúa đã truyền: “Các con sẽ chịu lấy quyền năng của Chúa Thánh Thần rồi sẽ đi làm chứng cho Thầy” (Cv 1,8). Nhưng Mẹ vẫn hiện diện giữa cộng đoàn tông đồ để khích lệ tinh thần và đồng thời cũng giúp lời cầu nguyện cho các Ngài, vì Mẹ bao giờ cũng coi mình như là “nữ tỳ Thiên Chúa”.
Mẹ về sống ở Ephesô với thánh Gioan, sau khi thánh Giacôbê bị vua Hêrôdê giết vào năm 42 vì Giêrusalem không còn là nơi an toàn nữa. Theo lời truyền khẩu, Ngài đã qua đời vào khoảng năm 54, hưởng thọ 72 tuổi. Cái chết của Mẹ Chúa là cuộc vuợt qua để về với Chúa. “Đức Trinh Nữ Maria được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác và được Thiên Chúa tôn làm nữ vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn” (GH 59).
Niềm tin Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời đã có từ lâu đời. Từ thế kỷ VI, người ta đã mừng lễ này với danh hiệu lễ Đức Mẹ ngủ. Đến ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Đồng Trinh hồn xác về trời. Diễn biến sự kiện này như sau:
Khoảng từ năm 1849 đến năm 1940, Tòa Thánh đã nhận được 1505 thỉnh nguyện tự phát xin định tín việc Mẹ hồn xác lên trời. Ngay trong Công đồng Vaticanô I, gần 200 nghị phụ cũng xin định tín. Sau thế chiến thứ II, từ năm 1945 đến năm 1950, do lần nữa 852 thỉnh nguyện được gửi tới Đức Thánh Cha do các giám mục, các bề trên dòng, các đại học Công giáo. Các nhà thần học của 30 quốc gia cũng đã gửi các thỉnh nguyện tập thể. Ngày 1 tháng 5 năm 1946, Đức Piô XV đã gửi cho mọi giám mục một lá thư, xin các ngài trả lời cho câu hỏi sau đây:
“Theo sự khôn ngoan chín chắn của Đức Cha, Đức Cha có ý kiến gì cho việc Đức Maria hồn xác lên trời được đề ra và xác quyết như một tín điều hay không? Đức Cha với hàng giáo sĩ và dân chúng có muốn điều đó hay không ?”
Đã có 1191 thư trả lời, trong đó 1169 thư ưng thuận, 16 thư nghi ngại về tính cách hợp thời của việc tuyên bố tín điều, 6 thư đưa những vấn nạn ngược lại. Tất cả giám mục của 17 Giáo Hội Đông phương hợp nhất với Tòa Thánh Roma trả lời ưng thuận. Ngày 30 tháng 10 năm 1950, đã có một hội nghị công khai với 700 vị trong hàng giáo phẩm tham dự. Đức Thánh Cha Piô XII lại hỏi ý kiến. Tất cả mọi vị đều trả lời ưng thuận. Như thế là đã có một sư đồng ý theo luận lý của mọi giám mục. Sự đồng ý này là một bày tỏ rõ ràng của giáo huấn thông thường. Do sự đồng ý này của quyền giáo huấn hợp với tín điều Công giáo.
Ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII trong sắc lệnh công bố tín điều, đã nhắc lại những sự kiện trên. Chúng ta chung một niềm tin với Giáo Hội vì:
– Đã có một liên hệ mật thiết giữa hồn xác lên trời với sự thụ thai vô nhiễm và muôn đời đồng trinh của Đức Maria. Vậy Mẹ đã toàn thắng tội lỗi và đáng được lên trời hồn xác.
– Việc lên trời hồn xác của Mẹ cũng liên hệ với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã không bao giờ làm hư hại sự toàn vẹn xác thể nên xác thân mẹ không thề hư hoại.
– Sau nữa, Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên hiệu qủa của ơn cứu rỗi là sự tôn vinh của con Mẹ cũng được hưởng (Rm 8,29-30; 2Cr 5,2-5) .
“Lễ Mông Triệu, ngày 15 tháng, ngày Maria đầy ơn Chúa, đầy hạnh phúc, hồn vô nhiễm và xác trinh trong của Mẹ được vinh hiển, ngày Mẹ được giống Chúa phục sinh cách hoàn toàn nhất. Lễ này làm cho Giáo Hội và nhân loại thấy được hình ảnh của hy vọng cuối cùng của chúng ta, là tất cả những ai được Chúa Kitô, một anh em Người thông phần máu thịt với Người sẽ được hoàn toàn vinh quang” (Dt 2,14) (Marialis Cultus).
Trong một vài thành phố nhỏ quanh thủ đô Roma, nước Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời, người ta có một tục lệ rất quyến rũ. Tục lệ đó được gọi là Incinata, nghĩa là cuộc rước đón chào. Dân làng kiệu tượng Đức Mẹ theo đường phố chính – Đức Mẹ đang trên đường về trời. Từ hướng đối diện, đoàn rước khác kiệu tượng Chúa Giêsu – Ngài đang tiến gần đến tượng Đức Mẹ. Hai đoàn rước gặp nhau dưới một khung vòm đầy cành lá và hoa rực rỡ. Hai tượng sắp đặt để cúi chào nhau ba lần. Rồi người ta kiệu hai tượng đi song song vào nhà thờ giáo xứ – Chúa chúng ta dẫn mẹ Ngài lên ngai trên trời.
Nghi thức đơn giản, ngây thơ này là một phương cách gây ấn tượng sâu sắc để diễn tả chân lý cao cả và vinh quang mà chúng ta cử hành hôm nay, tức là sự kiện Đức Maria, sau khi qua đời được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Trở lại năm 457, Đức Giám mục của Giêrusalem đã bày tỏ niềm tin được truyền tụng từ các tông đồ: “Đức Maria qua đời có các tông đồ vây quanh, nhưng về sau khi mộ Ngài được mở ra thì hoàn tòan trống rỗng, và các tông đồ kết luận rằng xác Ngài đã được đưa lên trời”.
Chúa Giêsu không muốn Mẹ Ngài chịu một giây phút nào dưới quyền lực satan, nên Ngài đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Ngài đã không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu mục nát, nên Ngài ban cho Mẹ đặc ân lên trời cả hồn và xác.
Chúa Giêsu vui mừng biết bao khi đón Mẹ Ngài vào nhà Ngài trên trời. Còn Đức Mẹ vui mừng biết bao, khi gặp lại Con trong thể xác; các thiên thần và các thánh trên trời vui mừng biết bao khi đón chào Nữ Vương, Mẹ mình. Chúa Cha trên trời vui mừng biết bao khi đón nhận người con sủng ái. Chúa Thánh Thần vui mừng biết bao khi gặp lại người Phụ nữ được tuyển chọn cộng tác vào việc đem con Thiên Chúa xuống trần gian. Thánh Giuse vui mừng biế bao khi có người bạn đời ở trần gian cùng ở trên trời.
Niềm hạnh phúc này của những người thân yêu gặp lại nhau là điều tất cả chúng ta có thể trông đợi. Trong ngày lễ Mông Triệu này, chúng ta có thể nhìn vào ngày chúng ta sẽ được lên trời, nơi chúng ta sẽ gặp những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta. Chúng ta không thể suy tư về điều này cho đủ được.
Chúng ta có nhiều điều để suy nghĩ về sự chết. Vậy hãy suy nghĩ về chân lý vui mừng và hy vọng là một ngày kia chúng ta sẽ gặp lại. Chúng ta cần nắm giữ tư tưởng này trong ngày lễ vui mừng hôm nay.
Bạn hãy cầu nguyện hôm nay với nghĩa đặc biệt theo những lời của Kinh nguyện Thánh Thể II, “Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa… và toàn thể các Thánh”. Bạn hãy đọc kinh Kính Mừng và chú ý đặc biệt lời: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”.
Tất cả chúng ta hãy chia sẻ niềm vui của Đức Mẹ được đón nhận vào Nhà Thiên Chúa với các bạn hữu của Thiên Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Mừng lễ Đức Mẹ lên trời cả hồn và xác là nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Niềm tin này được củng cố bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu. Ngày 1-11-1950, ĐGH Piô XII ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại), long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.
Đại lược thông điệp bất hủ này là: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời”.
Nói đến việc “lên trời” là ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Mà muốn làm công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Đó là điều chắc chắn!
MẶC KHẢI
Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Thật uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy gian khổ: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12,2). Đó là điều chắc chắn, vì không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.
Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12,3-4). Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12,5a). Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12,5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12,6). Khi đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.
Cựu ước cũng đã tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45),10]. Có lời ca vang: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45),11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh Nhan, thì người ta vô cùng hạnh phúc, thế nên không còn cần gì khác nữa: “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45),12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt vời cùng những người khác: “Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45),16].
ỨNG NGHIỆM
Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15,21). Thánh Phaolô giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15,22-24). Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15,25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Lý luận của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc và tuyệt vời!
Thánh sử Luca kể: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà ông Dacaria và chào hỏi chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng cô em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Rồi chị Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,43-45).
Vấn đề là đức tin, mà phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ. Đức Mẹ diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Điều này nhắc chúng ta phải xem lại đức tin của chính mình!
Nghe chị Êlisabét “khen” vậy, Đức Maria hân hoan dâng lời ca ngợi Chúa mà y như thơ vậy (Lc 1,46-55):
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Những lời Đức Mẹ nói chứa đầy sự khiêm nhường, lòng tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng là lời kinh Magnificat mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày, đặc biệt trong giờ kinh Thần vụ (kinh Nhật tụng).
Thánh sử Luca kể: “Đức Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1,56). Đức Mẹ không chỉ đi thăm chị họ theo phép xã giao mà còn là để “báo tin mừng”, nhất là để phục vụ bà chị đang mang thai bé Gioan Tẩy giả. Đức Mẹ là một nữ-tu-không-áo-dòng, không đi tu ngày nào, cũng chưa một lần tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Trên cả tuyệt vời. Một tấm gương chói ngời mà mọi người đều phải “soi” vào.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một người Mẹ Thánh tuyệt vời. Xin thương giúp chúng con biết khiêm nhường phục vụ và “xin vâng” như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, để chúng con chắc chắn được cùng Mẹ vui hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.