CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Mk 5,1-4; Dt 10,5-10; Lc 1,39-45
MỤC LỤC
7. Chia sẻ niềm vui – Radio Veritas Asia
8. Thưa ‘vâng’ với Thiên Chúa – Achille Degeest
9. Chuẩn bị Lễ Giáng Sinh với Mẹ Maria
11. Phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn
14. Viếng thăm chị họ Êlisabét
17. Chúa muốn chúng ta thăm và giúp đỡ tha nhân
18. Niềm vui của việc tin tưởng
19. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
20. Suy niệm của R. Gutzwiller
22. Chú giải của Fiches Dominicales
Trong Kinh Thánh, có lần qua môi miệng các tiên tri, Chúa đã phán: Tư tưởng và đường nẻo của Ta không phải tư tưởng và đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng sẽ cao hơn tư tưởng và đường lối của các ngươi bấy nhiêu.
Trải qua dòng lịch sử, Ngài đã thực hiện đúng như thế. Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy, Đavít chỉ là một trẻ nhỏ đi chăn chiên tại Bêlem, thế nhưng Chúa đã chọn và đặt Đavít lên làm vua, chiến thắng được đạo quân hùng mạnh của Goliat và dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim.
Trường hợp của tiên tri Giêrêmia cũng vậy. Lúc bấy giờ ông mới chỉ là một em nhỏ còn nói cà lăm, thế nhưng Chúa đã chọn ông làm tiên tri để chuyển đạt thánh ý của Ngài cho toàn dân Do Thái.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa cũng đã hành động như vậy. Trước mặt người đời thì Đức Maria và bà Isave là hai người không có hy vọng sinh con. Đức Maria thì khấn giữ mình đồng trinh. Còn bà Isave thì vừa son sẻ, lại vừa cao niên. Quan niệm dân Do Thái cũng giống như quan niệm của người Việt Nam ngày xưa, coi sự kiện đông con nhiều cháu là một phúc lành do trời trao ban vì thế trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: đa tử đa tôn đa phú quý, đông con nhiều cháu và giàu sang. Bởi đó son sẻ và đồng trinh sẽ bị người đời cười chê, vì phải chăng đó là dấu bị Chúa chúc dữ? Phải chăng đó là dấu chỉ tương đường với sự chết bởi vì nếu chết là hết sống, thì son sẻ và đồng trinh là hết chuyển thông dòng sự sống.
Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn những người bất hạnh và yếu kém như thế để làm những việc trọng đại. Đức Maria thì được chọn làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Cứu Thế. Còn bà Elisabeth thì được chọn làm mẹ Gioan, vị tiền hô dọn đường và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho muôn người.
Tuy nhiên đường lối của Chúa là một chuyện, sự kêu mời của Chúa là một chuyện, điều quan trọng là chúng ta có biết cộng tác với Chúa hay không. Trong chiều hướng này, thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Bởi đó mặc dù chúng ta là những kẻ hèn kém và yếu đuối, nhưng nếu chúng ta biết xin vâng như Mẹ Maria và biết cộng tác với ơn Chúa như và Isave, Chúa cũng sẽ làm cho chúng ta những việc kỳ diện, đó là biến chúng ta trở nên người đem Chúa đến cho muôn dân.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: Ngày kia, mẹ đến thăm một nhà thương rất tối tân tại Anh quốc. Mọi căn phòng đều khang trang, sáng sủa và được trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng với những tiện nghi, cân xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra các y tá, nhân viên làm việc rất nhã nhặn và lịch sự.
Nhưng mẹ nhận thấy một điều kỳ lạ và hỏi vị bác sĩ đang hướng dẫn mẹ đi thăm:
– Thưa bác sĩ, tại sao các bệnh nhân, cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?
Câu trả lời của ông bác sĩ rất đơn sơ nhưng đượm vẻ buồn buồn:
– Thưa mẹ, vì họ luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm, nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ.
Từ câu chuyện này, chúng ta đi vào nỗi chờ mong của nhân loại. Thực vậy, sau khi nguyên tổ phản bội, Thiên Chúa đã hứa ban cho con người một Đấng Cứu thế qua lời tuyên phán với Eva: Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người phụ nữ. Người phụ nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi chỉ rình cắn trộm gót chân người.
Trải qua dòng thời gian, Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái để duy trì lời hứa thuở ban đầu. Và hình ảnh Đấng Cứu thế mỗi ngày một thêm rõ nét.
Chẳng hạn tiên tri Isaia đã xác định: Một trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Suốt dọc thời gian, nhân loại đã mò mẫm tìm kiếm Thiên Chúa. Và nhất là dân Do Thái, họ khắc khoải chờ mong Đấng Cứu thế sẽ đến để giải thoát họ, mỗi khi đất nước họ gặp phải tai ương hoạn nạn. Nỗi khắc khoải chờ mong ấy đã kết tinh thành những lời nguyện cầu tha thiết: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời.
Và khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời phán hứa thuở xưa bằng cách sai Con Một Ngài xuống trần để cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, để Ngôi Lời có thể mặc lấy xác phàm và ở giữa chúng ta, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria để cộng tác với Ngài trong việc thực hiện chương trình cứu độ mà Ngài đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Với lời xin vâng của Mẹ trong hoạt cảnh truyền tin, lời hứa thuở ban đầu đã trở thành sự thật. Thiên Chúa đã đến với con người để giải thoát họ khỏi án phạt của tội lỗi. Thế nhưng, trước khi đem Chúa đến cho nhân loại, thì ngày hôm nay bằng hành động thăm viếng, Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho nhà bà Êlisabéth, khiến cho Gioan được nhảy mừng.
Mẹ đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho người Kitô hữu, bởi vì Mẹ không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà còn đem Chúa đến cho người khác.
Noi gương Mẹ Maria, bằng những hành động bác ái yêu thương, chúng ta cũng hãy đem Chúa đến cho những người chung quanh. Đó cũng chính là sứ điệp chúng ta cần phải thực hiện trong Mùa Giáng sinh này.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.
Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường.
Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Elizabeth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Maria đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.
Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái.
Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy, Ngài đã rợp bóng trên Đức Maria và lập tức Đức Maria được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Maria không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Maria vội vã lên đường ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra cho cả dân tộc, cả đồng loại. Nên trong bài Magnificat, Đức Maria đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.
Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình.
Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình. Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Maria còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yếu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Đức Giêsu và can đảm đứng dưới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.
Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ.
Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Maria không quản thân phận là Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Elizabeth. Đức Maria cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.
Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Thánh Gioan Baotixita còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo cho Giáo Hội và Nước Thiên Chúa.
Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh, ta hãy noi gương Đức Maria, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Maria dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần?
2. Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth tràn đầy niềm vui?
3. Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho người khác và cho chính bạn không?
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta gặp hai phụ nữ. Cả hai đang mang thai lần đầu cách diệu kỳ. Cả hai đều được Thiên Chúa đoái thương tuyển chọn.
Theo lời sứ thần, Đức Maria đi thăm bà Êlisabét. Hai bà mẹ gặp nhau tạo điều kiện cho hai thai nhi gặp nhau. Đấng Cứu độ nhân loại đi thăm vị Tiền hô của mình. Cuộc gặp gỡ thật bình thường, nhưng lại rất linh thánh, được diễn ra trong bầu khí tràn ngập Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn luôn tác động trên Đức Maria, và làm cho thai nhi Giêsu lớn lên từng ngày. Thánh Thần đã đầy tràn Gioan từ trong lòng mẹ khiến ông nhận ra Đức Kitô và nhảy mừng chào đón. Thánh Thần bỗng chốc đến với bà Êlisabét làm bà nhận ra điều mắt thường không thấy được, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Maria đem đến cho Êlisabét niềm vui và sự phục vụ, nhưng chính Mẹ cũng nhận được sự đỡ nâng. Mẹ xác tín hơn về lời thiên sứ loan báo cho mình, khi Mẹ thấy quả thật bà chị hiếm muộn đã có thai. Mẹ ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm kín ẩn mà Mẹ âm thầm đón nhận trong lòng tin, nay lại được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà đã khiến Mẹ cất lời ngợi khen Thiên Chúa (x. Lc 1,46-55).
Cuộc đi thăm nào cũng làm tôi hiểu hơn về mình, và ý thức sâu hơn về những ơn tôi đã lãnh nhận. Maria biết mình có phúc hơn mọi phụ nữ vì Mẹ được chọn để cưu mang Đấng Mêsia. Maria biết mình diễm phúc, vì dám tin vào Lời Chúa. Cuộc gặp gỡ với bà Êlisabét giúp Maria vững tin hơn vào tính khách quan của kinh nghiệm mình được gặp Chúa.
Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Khi chấp nhận làm người, Con Thiên Chúa cần một người mẹ. Ngài được thụ thai cách lạ lùng trong lòng một trinh nữ, và Ngài đã lớn lên bình thường trong dạ mẹ. Dạ mẹ là mái nhà êm ấm đầu tiên, là Đền Thánh trước khi Con bước vào thế giới.
Khi được nuôi bằng sự sống của Mẹ Maria, Con đã thánh hóa tất cả những gì thuộc về Mẹ.
Tất cả những gì nằm trong tiến trình làm người như thụ thai, mang thai, sinh đẻ, dưỡng nuôi bú mớm… đều trở nên thánh thiêng, vì được Con Thiên Chúa đảm nhận.
Con Thiên Chúa đã từng là thai nhi trước khi chào đời, nên mỗi thai nhi đều là hình ảnh Chúa cần trân trọng. Như Gioan nhảy mừng lúc còn trong dạ mẹ, mỗi thai nhi đã biết diễn tả buồn vui, đã cần được yêu mến. Lễ Giáng Sinh đòi ta quan tâm đến các bà mẹ và thai nhi.
Hàng năm có cả triệu vụ phá thai trong nước… Kính trọng thân xác phụ nữ, tôn trọng sự sống thai nhi: đó là Tin Mừng Giáng Sinh cho khắp thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các nhà nghiên cứu xã hội phỏng đoán có tối thiểu khoảng 2 triệu người phá thai mỗi năm trong cả nước. Bạn có biết những nguy hiểm về thể xác và tinh thần cho các bà mẹ phá thai không?
Các tệ nạn xã hội gia tăng dẫn đến đại dịch AIDS. Bạn nghĩ gì về chuyện buôn bán thân xác phụ nữ? Có cách nào giải quyết không?
Cầu Nguyện
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong Chúa Nhật cuối cùng của mùa Vọng, Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét, giữa hai thai nhi: Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui. Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê. Chị không đi một mình trên đường xa, vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị. Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở. Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria. Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được. Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm. Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng. Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư, để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần. Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria. Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét. Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria vì chị mang lại Đấng ban Tin Mừng cứu độ. Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ và chị cưu mang Đấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa, chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người. Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, chị còn có phúc vì chị đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ. Ngài tăng trưởng như mọi người. Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé, những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt. Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ, không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi, vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa; không ai được coi thường người phụ nữ, vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Maria đi phục vụ bà Êlisabét, theo ý bạn, đâu là những đặc tính của một người phục vụ tốt?
Nhiều quốc gia chấp nhận cho phá thai. Bạn nghĩ gì về sự kiện đó?
Cầu Nguyện
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại. không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn. yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: “Một hôm, Mẹ đến thăm một nhà thương Anh quốc rất tối tân. Mẹ tả phong cảnh và các phòng ốc của nhà thương rất khang trang, sáng sủa và trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng tiện nghi vô cùng tối tân, cân xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra, các y tá, nhân viên làm việc trong nhà thương đều rất nhã nhặn và lịch sự. Nhưng Mẹ nhận thấy một điều lạ kỳ và hỏi một vị bác sĩ đang hướng dẫn Mẹ đi thăm nhà thương. “Thưa bác sĩ, tại sao các người bệnh cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?”. Câu trả lời của viên giám đốc nhà thương rất đơn sơ nhưng đượm vẻ buồn: “Thưa, vì họ luôn luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm họ, nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ hết”.
Ngay từ thời sơ khai, Giáo Hội bao giờ cũng luôn luôn khuyến khích các tín hữu thăm những người già cả, bệnh tật, ốm yếu, tù nhân, nghèo khó và tất cả những ai cần trợ giúp, ủi an nâng đỡ. Nghĩa là Giáo Hội hối thúc tín hữu thực thi Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu và nhìn ra khuôn mặt của Ngài nơi các anh chị em đau khổ và bị bỏ rơi này.
Các bài đọc Chúa nhật này cũng mời gọi chúng ta suy tư về con đường nghèo hèn, tầm thường bé nhỏ, mà Thiên Chúa đã dùng để đến với loài người chúng ta và các hệ lụy của sự lựa chọn ấy. Chương 5,1-4, sách tiên tri Mikêa là một lời sấm thuộc một lời sấm cứu thế được thánh sử Matthêu dùng lại và áp dụng cho Chúa Giêsu trong bối cảnh này. Lời sấm này của tiên tri Mikêa diễn tả các trái nghịch giữa sứ mạng Thiên Chúa giao phó cho Giêrusalem trong dòng lịch sử cứu độ và cái bất lực của nó. Sở dĩ Giêrusalem đã không chu toàn được sứ mạng này vì tội lỗi và bất trung nó đã vấp phạm, khiến cho nó không còn khả năng thực hiện những nhiệm vụ ấy. Do đó, Thiên Chúa đã chọn lựa một nơi chốn khác xa xôi, bé nhỏ và hẻo lánh không ai ngờ tới. Đó là làng quê Bêlem, trước đây gọi là Ephrata.
Đấng Cứu Thế và dòng tộc của Ngài sẽ bắt nguồn từ đó chớ không phải tại thủ đô Giêrusalem hay một thành phố danh tiếng nào khác vùng Trung Đông cổ. Và trong làng quê Bêlem, Thiên Chúa chọn gia đình ông Giêsê, cha của vua Đavít và là ông tổ của thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ Maria, người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế. Như thế, Chúa Giêsu Kitô xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại tại làng quê bé nhỏ Bêlem này, cách xa khung cảnh huy hoàng vĩ đại của các thành phố lớn thuộc các đế quốc vùng Trung Đông. Ngài đã bước vào gia đình nhân loại như một trẻ bé bỏng, yếu đuối, trong một gia đình bình thường như hàng ngàn vạn gia đình bình thường khác. Tuy nhiên, trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì là tình cờ cả. Các lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa, là quê Bêlem khiêm tốn, điều kiện bé bỏng yếu đuối của con người đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa. Bởi vì Đấng xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị với chính uy quyền của Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân loại.
Kiểu cách lựa chọn ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa dùng để hiện thực chương trình cứu độ, càng nổi bật hơn theo bài Phúc Âm thánh Luca, 1,39-48. Maria, một thiếu nữ vô danh, con của một gia đình làng quê Nazareth được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Đấng Cứu Thế Con của Ngài. Phước lành Thiên Chúa đổ tràn đầy trên Trinh Nữ Maria cũng là phước lành Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại trong dòng lịch sử thế giới, lịch sử loài người. Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu là phước lành, nhưng phước lành vĩnh viễn và cao quí trọng đại nhất là chính Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Lời chào của bà Isave khi thấy Trinh Nữ Maria đến thăm mình và lời kinh chúc tụng của Trinh Nữ Maria đều ngợi khen kểu cách Thiên Chúa lựa chọn con đường dẫn Ngài đến cuộc gặp gỡ cứu độ loài người, con đường bé nhỏ tầm thường khiêm tốn nghèo hèn. Nhiều người không chịu được ý tưởng Con Thiên Chúa nhập thể làm người trong lòng một phụ nữ và mở mắt chào đời từ lòng của một bà mẹ. Do đó, câu chào của bà Isave: “Em ơi, em thật có phúc hơn mọi phụ nữ và Giêsu người con của cung lòng em cũng thật là có phúc”. Nhưng đây là một sự thật, một sự thật lịch sử minh chứng cho thấy, tất cả những biến cố của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã nhập thể làm người và sinh ra từ cung lòng của người đàn bà trong gia đình nhân loại, hoa trái ngọt dịu ấy, người con ấy do hoạt động và quyền năng của Đức Chúa Thánh Thần nên được cưu mang trong cung lòng của Trinh Nữ Maria. Nhưng cũng y như bất cứ bào thai nào khác của con người trần gian, nó được gắn liền thịt xác của bà mẹ và sẽ nhập thể. Con Thiên Chúa đã cần đến cung lòng của một bà mẹ. Trinh Nữ Maria đã không tiếp nhận Ngôi Lời trong linh hồn mình, mà đã tiếp nhận Ngài trong chính thân xác mình, trong cung lòng phụ nữ của mình. Và Chúa Giêsu đã chấp nhận một luật lệ tâm, sinh, vật lý của một bào thai thành hình lớn lên trong 9 tháng 10 ngày, được mẹ nuôi bằng chính máu mẹ như mọi thai nhi khác. Sự kiện lớn lên dần dần ấy tỏ ra qua hình thể tròn trịa của bụng mẹ ngày càng lớn lên. Sự kiện Giêsu là hoa trái, là bào thai lớn lên trong bụng mẹ, chứng minh Thiên Chúa không phải là một lý thuyết, một giả thuyết, mà Ngài là một hoa trái để dưỡng nuôi cứu độ thế giới này.
Mẹ Maria chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ thầm lặng ẩn dật, cưu mang Giêsu, hoa trái cứu độ rồi dâng hiến Ngài cho chúng ta. Ánh sáng không cần lời nói, sự sống hơi thở của con tim chính là sứ điệp. Khi lòng càng trống rỗng bao nhiêu thì con người càng gây nhiều tiếng động tình yêu. Kitô hữu là người cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng nhưng có thể mang Chúa Kitô phong phú và hữu hiệu như Mẹ Maria, khi ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ và yêu thích con đường kiểu sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ khiêm hạ.
Như đã nêu lên trong thư Do Thái diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu, biến cố Chúa Giêsu nhập thể làm người là một biến cố lịch sử và là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ. Bởi vì nó mở ra một kỷ nguyên mới, nó vượt xa quan niệm cũ của Do Thái về liên hệ giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa con người và Thiên Chúa. Do Thái giáo đóng khung các nghi lễ này trong đền thánh, trong việc dâng cúng các lễ vật và việc tuân giữ luật lệ. Mặc dầu các sinh hoạt đã có nhiệm vụ và vai trò rất quan trọng trong lịch sử cuộc sống tinh thần của Israel, chúng cũng không thể trao ban ơn cứu độ do con người. Nếu muốn được ơn cứu độ, con người cần phải trở về với chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với nó ngay từ thời tạo dựng. Nghĩa là trước khi con người phạm tội, cần phải nhận biết Thiên Chúa và thánh ý Ngài và lấy đó làm trung tâm lịch sử đời mình và lịch sử thế giới, cần phải quy hướng cuộc sống của mình theo chương trình và ý muốn của Thiên Chúa và hoán cải trở về với Ngài. Thái độ sống này đòi buộc chúng ta không được tách rời cuộc sống lòng tin khỏi các sinh hoạt thường ngày, bởi vì chúng ta không phải chỉ là Kitô hữu khi cử hành các lễ nghi phượng tự mà thôi, nhưng là suốt ngày, trong mọi công việc khác nhau. Tách rời cuộc sống lòng tin khỏi sinh hoạt trong cách hành sử thường ngày là chúng ta khước từ tin nhận biến cố nhập thể của Chúa Giêsu. Bởi vì khi nhập thể, Chúa Giêsu quy hướng toàn cuộc sống của Ngài theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Này con xin đến để làm theo thánh ý Cha”. Và Chúa Giêsu đã sống mọi giây phút đời mình dưới ánh sáng chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, khi biết noi gương Chúa Giêsu, sống tinh thần nhập thể trọn vẹn, ấy là chúng ta đón nhận sứ điệp Giáng sinh đúng đắn và trọn vẹn nhất.
7. Chia sẻ niềm vui – Radio Veritas Asia.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Trong bầu khí mừng lễ Chúa Giáng sinh, phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elizabeth.
Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Mikêa cho thấy lời Chúa hứa là Người sẽ gặp dân Người và điểm quan trọng là tiên tri gọi đích danh thành Bêlem và cho biết từ đó sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel. Với lời hứa đó, con người sống trong hy vọng và từ nay Thiên Chúa không còn gặp gỡ con người trong tiếng sấm kinh hồn, trong chớp lòa khủng khiếp, mà trong một Đấng xuất thân từ một địa điểm rõ rệt trên mặt đất này. Và chính Đấng đó sẽ chăn dắt Israel trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Thiên Chúa.
Như thế từ 700 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, tiên tri Mikêa đã chỉ rõ nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và ở cùng con cái loài người. Đó là một điểm khuyến khích niềm hy vọng, sự mong chờ trong Cựu Ước. Thiên Chúa đến gặp gỡ con người, ở với con người và hướng dẫn con người trên con đường về Nước Thiên Chúa.
Bài đọc thứ hai trích từ thư gởi tín hữu Do Thái của thánh Phaolô, diễn tả một cách chính xác hơn, cụ thể hơn Đấng đến gặp con người mà tiên tri Mikêa chỉ diễn tả cách lờ mờ trong hy vọng. Đấng đó đến với một thể xác để thi hành thánh ý Chúa trong thân xác của mình thay thế cho bao nhiêu của lễ toàn thiêu, của lễ đền tội. Đấng đó chính là Chúa Giêsu, Ngài đã đến và đã là điểm gặp gỡ hữu hình giữa Thiên Chúa và con người. Ngài là trung gian giữa trời và đất. Nơi Ngài, con người nhìn thấy Thiên Chúa hữu hình để qua Ngài, con người đem lòng yêu mến những sự vô hình, và Thiên Chúa chí tôn chí thánh yêu mến con người yếu đuối, tội lỗi khi nhìn thấy nhân loại nơi Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, vì Chúa yêu thương con người qua những gì Chúa quí mến nơi Con Một Chúa Nhập thể làm người. Đó là một sự gặp gỡ nhiệm mầu mà chỉ có Thiên Chúa mới bắc cầu qua được vực thẳm xa cách giữa Thiên Chúa và con người đó. Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà chúng ta được nên thánh và được vui mừng tiến về thiên quốc, qua vực thẳm đã được Thiên Chúa bắc cầu gặp gỡ.
Tiếp đến chúng ta thấy người cộng tác trực tiếp và tích cực cho cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người này, chính là Đức Maria. Người đã mang thai Đức Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần, để cung cấp cho Ngôi thứ hai một thân xác theo ý định Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc thứ hai: “Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác”.
Với hình ảnh Maria đi viếng bà Elisabeth nơi Phúc Âm hôm nay, các thánh trong Giáo Hội hay suy niệm đó là hình ảnh người đem Chúa đến cho nhân loại. Khi nói đến sự gặp gỡ đầu tiên trong thân xác với thân xác, giữa Thiên Chúa và con người này, thánh Luca đã diễn tả một quang cảnh tràn ngập niềm vui.
Trước tiên niềm vui của bà Elisabeth, bà đang có mang lần đầu tiên trong lúc tuổi già và bà biết nhờ thiên thần đã nói với Giacaria chồng bà rằng: “Người con trai của bà sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trong lòng mẹ và người con đó sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Chúa”. Niềm vui đó tràn trề khi Maria chào bà, làm bà phải kêu lên trong hân hoan ngây ngất: “Bởi đâu mà tôi được diễm phúc là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi!”
Đến lượt Maria, người cũng vui mừng và từ đáy lòng thốt lên kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”. Lời kinh tuyệt vời cô đọng từ trong Kinh Thánh mà Giáo Hội hằng ngày dùng để ca tụng Chúa trong giờ Kinh Chiều của mình.
Tiếp đến là Gioan, dầu còn trong lòng mẹ cũng cảm thấy được niềm vui gặp Đấng cứu độ. Chính Elisabeth đã âu yếm để ý đến con mình và nói lên cho mọi người biết: “Này, tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi”. Truyền thống Công Giáo cho rằng: khi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ, chính là lúc Gioan được tha tội tổ tông và được thánh hóa nhờ ơn cứu chuộc của Đấng Cứu Thế.
Tất cả mọi người đều vui mừng trong Phúc Âm Chúa nhật hôm nay, mà nguyên nhân của sự vui mừng đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, dầu Người mới tượng thai vài tuần trong lòng Mẹ Maria. Chúng ta có thể mở ngoặc một chút ở đây, để nhìn thấy sự kiện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng hùng hồn để tôn trọng đời sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Mới có vài tuần trong lòng Mẹ, Chúa Giêsu đã là Thiên Chúa thật, đã mang niềm vui đến cho mọi người nhất là đem ơn thánh hóa đến cho Gioan cũng còn trong lòng mẹ. Nhưng ở đây, Chúa nhật này, chúng ta đặt trọng tâm suy niệm vào niềm vui được ơn cứu độ, niềm vui gặp được Chúa. Cùng với Elisabeth và Gioan ước gì chúng ta cảm thấy được niềm vui Chúa đến với chúng ta, và cùng với Mẹ Maria ước gì chúng ta biết đem niềm vui đến cho mọi người.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng dàn xếp tất cả những gì đã làm tôi phiền muộn bực bội khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng sinh. Và tôi sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn. Và vì lễ Giáng sinh là lễ để chia sẻ niềm vui, cho nên tôi cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.
8. Thưa ‘vâng’ với Thiên Chúa – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn Phúc Âm này bắt nguồn từ những bản văn người ta mệnh danh là “truyện thời thơ ấu của Chúa Giêsu” và cho rằng tất cả chỉ là “thần thoại”. Có những thuyết nhìn thấy trong đó một sự pha trộn những chuyện tưởng tuợng của một số tôn giáo cổ. Ở đây không xét đến lập trường ấy, chúng ta căn cứ vào những công trình khảo cứu theo phương pháp khoa học nghiêm chỉnh nhất và học thuyết của Giáo Hội. Thật ra Phúc Âm chứa đựng đức tin thuần khiết và trọn vẹn, cho nên phải đọc Phúc Âm với một tâm tình thanh khiết.
Đức Maria đi thăm chị họ là bà Elizabeth, và được đón chào: “Bà có diễm phúc hơn mọi người nữ”. Lúc đó xảy ra một sự kiện quan trọng cho cả chủ lẫn khách: Gioan Tẩy Giả nhảy mừng trong lòng mẹ khi Đức Maria đang mang thai Chúa Giêsu vừa tới nơi. Đoạn tả cảnh thăm viếng kết thúc bằng tiếng hô lớn của bà Elizabeth, nhận định của bà đối với chúng ta rất là quan trọng: “Phúc cho bà là người đã tin”.
Giáp Lễ Giáng Sinh là lúc thích hợp để suy niệm về mầu nhiệm Đức Maria:
1) Mầu nhiệm trinh khiết.
Ơn trinh khiết của Đức Maria có tính cách thanh sạch trọn vẹn bao trùm và thấm nhuần tất cả hồn xác Người. Dường như bà Elizabeth cảm biết sự thật ấy trong con người của Đức Maria vì bà nghĩ rằng, nhờ lời Chúa, Đức Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Được ơn linh ứng của Chúa Thánh Linh và đáp trả ân huệ đó, Đức Maria quan niệm cuộc đời mình chỉ là để trao phó tất cả hồn xác cho Chúa trong niềm cung hiến thuần khiết trọn vẹn nhất. Khi thiên sứ xin Người trả lời. Đức Maria nhìn rõ toàn diện vấn đề đặt ra cho mình. Ngay lúc đó, hành vi tin của Đức Maria đối với Thiên Chúa cho Người cảm biết sự thụ thai vượt khỏi định luật nhân loại chính là phương cách triệt để nhất, hoàn toàn nhất để thuộc về Thiên Chúa. Tiếng vâng của Đức Maria là sự thánh hiến đức trinh khiết của Người.
2) Mầu nhiệm làm mẹ.
Do sự ưng thuận làm mẹ, Đức Maria gia nhập mầu nhiệm Đức Giêsu trong đời sống thế gian của Chúa, bắt đầu từ khoảnh khắc truyền tin cho tới khoảnh khắc sau cùng là Chúa sống lại, qua những giai đoạn Chúa sống ẩn dật, Chúa đi rao giảng, Chúa chết trên thập giá.
Thái độ Đức Maria trong những giai đoạn ấy có thể vạch cho chúng ta hai hướng cầu nguyện:
– Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, dù gặp những hoàn cảnh phi lý nhất, đó là con đường chắc chắn để hoàn thành số mạng mình.
– Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, chung cục đem niềm vui đến với chúng ta nhờ kết hợp mật thiết với mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô hấp hối và sống lại để cứu độ chúng ta và thế giới.
9. Chuẩn bị Lễ Giáng Sinh với Mẹ Maria.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhân vật quan trọng thường đến sau cùng, Đức Trinh Nữ Maria, người phụ nữ được chọn làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, hôm nay mới chính thức xuất hiện vào Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng-Giáng Sinh. Mẹ xuất hiện trong khung cảnh một cuộc đi thăm viếng và phục vụ bà Elizabeth, một phụ nữ son sẻ lại được làm mẹ sinh ra Gioan Tẩy Giả, Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Một cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ và cũng là một cuộc chào đón giữa hai người con trong cung lòng hai người mẹ.
Trong dịp này, Mẹ Maria đã tỏ ra như gương mẫu cho chúng ta noi theo để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh.
Để mừng lễ Giáng Sinh với Mẹ Maria, chúng ta phải có tâm tình của Mẹ: tâm tình đầu tiên của Mẹ là sẵn sàng đối với Chúa. Tin Mừng trình bày Mẹ Maria qua một khung cảnh cảm động. Một thiếu nữ đã đính hôn vừa có thai, lên đường thực hiện một cuộc hành trình dài đến 150 cây số và ở lại nhà bà Elizabeth trong một thời gian ba tháng. Một thiếu nữ mới lên 17, 18 tuổi, chưa bao giờ ra khỏi nhà mẹ mình, đã vội vã ra đi tiến lên miền núi theo một tiếng gọi thiêng liêng thì thầm trong lòng.
Ngay từ đầu, trong buổi Truyền Tin, Mẹ Maria đã tỏ ra sẵn sàng rồi: Thiên sứ báo tin Maria sẽ sinh con, Maria bối rối vì mình không biết đến đàn ông. Nhưng Thiên Sứ lại nói, Maria sẽ cưu mang bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Thiên Sứ nhắc đến trường hợp của bà Elizabeth, tuy đã già cả và có tiếng là son sẻ, nhưng đã cưu mang được 6 tháng. Và Thiên Sứ kết thúc: “Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được”. Đức Maria liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Thiên Sứ truyền”. Maria luôn tỏ ra sẵn sàng khi đã biết được ý muốn của Chúa.
Chính sự sẵn sàng đó đã làm cho bà Elizabeth nhận ra khi Maria bước vào nhà mình: “Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói cho em biết”. Vì vậy, thái độ chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh đối với chúng ta hôm nay là phải suy gẫm và sống lời Chúa như Mẹ Maria, điều mà cách đấy 30 năm sau chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Phúc cho ai nghe Lời Chúa mà đem ra thực hành “.
Mẹ Maria sẵn sàng vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng và đơn sơ. Chính đức tin là động cơ thúc đẩy các hoạt động của Mẹ. Chúng ta đọc được ở chương 2 Tin Mừng theo thánh Luca, hai điểm rất đơn sơ, bề ngoài xem ra không quan trọng, nhưng thật sự đầy ý nghĩa. Đó là khi các mục đồng từ hang đá Bêlem ra về, họ đã thuật lại khắp nơi những biến cố của đêm Chúa Giáng Sinh, và tất cả những ai nghe đều kinh ngạc về các điều mục đồng thuật lại. “Còn Maria thì giữ kỹ những điều ấy và luôn suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,18-19). Cũng ở cuối chương 2 này, khi Đức Mẹ gặp được Chúa Giêsu trong Đền Thánh sau mấy ngày lạc mất con, Thánh sử Luca cũng ghi: “Rồi Chúa Giêsu đã theo hai ông bà trở về Nazaret. Ngài luôn vâng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ các điều ấy trong lòng” (Lc 2,51).
Cả hai lần đó, Thánh Luca lưu ý với chúng ta rằng: Mẹ Maria không những chỉ trao ban cho Chúa Giêsu Hài Đồng một thân xác mà Mẹ còn muốn hiến trong cuộc đời mình, lòng trí của mình cho việc phục vụ Con Thiên Chúa làm người. Mỗi lời nói, mỗi sự việc, mỗi cảm nghĩ, Mẹ đã gói ghém cẩn thận và chôn giấu trong trí lòng Mẹ. Mỗi một phép lạ, lời chào của Thiên sứ, của bà Elizabeth, biến cố đêm Giáng Sinh, những lời nói của mục đồng, của các Đạo sĩ, những lời tiên tri của Simêon, của Anna, những tiếng bập bẹ đầu tiên của Chúa Giêsu, mỗi cái nhìn của Ngài, mỗi hành động của Ngài, tất cả ngần ấy thứ Mẹ suy đi nghĩ lại và cẩn thận gìn giữ như kho tàng thiêng liêng quý giá nhất của Mẹ.
Không những Mẹ Maria luôn vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng mà còn vâng theo ý Chúa một cách đơn sơ. Bởi vì, có nhiều người cũng vâng nghe ý Chúa với niềm tin tưởng nhưng nhiều khi vì miễn cưỡng, vì bất đắc dĩ, không hoà đồng ý mình với ý Chúa. Tin Mừng nói: Mẹ Maria ra đi vội vã, nhanh chóng, không do dự, không tính toán so đo, cứ ra đi trong phó thác. Vâng theo ý Chúa khi ý Chúa ăn hợp với ý ta thì dễ, nhưng khi ý Chúa trái hẳn với ý ta mà ta vui vẻ đón nhận, khi ấy mới quý, và chứng tỏ lòng yêu mến đích thực của chúng ta.
Mẹ Maria luôn sẵn sàng đối với Chúa, Mẹ cũng luôn sẵn sàng đối với tha nhân. Mẹ đã đi phục vụ bà chị họ của mình, không chút do dự, vì Mẹ thấy ý Chúa trong đó. Hơn nữa, Mẹ thấy đó là nhiệm vụ của mình. Là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ có nhiệm vụ phải đem Chúa cho kẻ khác. Lại nữa, Mẹ cảm nghiệm rằng, lòng mình khi được mang Chúa thì được hạnh phúc biết bao, bình an biết mấy và phấn khởi dường nào. Ước chi bao nhiêu người khác cũng được Chúa đem lại niềm vui và hạnh phúc như mình. Nghĩ như vậy, Mẹ vội vàng lên đường. Chúa không để cho Mẹ phải thất vọng. Mẹ đến, Mẹ đã làm cho cả gia đình bà Elizabeth sung sướng. Bà Elizabet phải thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi. Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, Hài Nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi”.
Anh chị em thân mến,
Toàn dân Chúa có thể nhận ra mình nơi Đức Trinh Nữ Maria, Người được làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Chúng ta luôn có thể chuẩn bị lễ Giáng Sinh trong thái độ phục vụ anh chị em như Mẹ Maria.
Gương Mẹ sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi, tiếng tha nhân mời, phải được chúng ta noi theo. Chúa gọi chúng ta qua tiếng mời của tha nhân. Tiếng tha nhân gọi ta là tiếng Chúa mời gọi. Chúng ta vui vẻ thưa “vâng” với Chúa và sẵn sàng trả lời “có” với tha nhân, không lẩm bẩm kêu ca khi gặp điều trái ý, không từ chối, lảng tránh bất cứ ai cần đến.
Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, khi gặp những hoàn cảnh chúng ta tưởng là phi lý, cứ thưa “vâng”, vì đó là con đường chắc chắn hoàn thành sứ mạng. Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, để noi gương Mẹ bước vào lịch sử cứu độ, kết hiệp mật thiết với mầu nhiệm Chúa Kitô đã chết và sống lại, để cứu độ loài người. Phúc cho ai ngày càng bớt tự tin để thêm tin Chúa, bớt tự ái để thêm bác ái yêu người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu kể cho chúng ta một mẩu chuyện nhỏ: Lúc ấy, Têrêsa còn nhỏ. Nghe đọc chuyện thương khó của Chúa Giêsu. Têrêsa cảm động, nước mắt tràn mi. Têrêsa cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thương con quá, còn con chưa làm được gì để đền đáp cả. Con phải qua xứ truyền giáo xa xôi và con sẽ chết tử vì đạo ở đó như các vị truyền giáo. Cầu nguyện xong, Têrêsa bỏ nhà và chạy ra đường. Cứ chạy, chạy mãi, quyết sẵn sàng chết mà… Bỗng một cậu bé trai cùng tuổi chặn Têrêsa lại và hỏi: “Cô tên gì?”. Têrêsa ngập ngừng trả lời: “Tôi là Têrêsa của Giêsu Hài Đồng”. “Còn cậu, cậu tên gì?”. –Tôi hả? Tôi là Giêsu Hài Đồng của Têrêsa. Cậu bé liền biến mất.
Thưa anh chị em,
Với viễn ảnh một Chúa Giêsu Hài Đồng sắp đến trong máng cỏ từ phía bên kia, thì từ phía bên này chúng ta đã sẵn sàng tiến bước để đi đón Ngài chưa? Chỉ còn một tuần nữa thôi. Chuẩn bị “dầu đèn” sẵn sàng đi, để hôm đó, đèn chúng ta rực sáng và không còn lo thiếu dầu. Ôi! Đêm Giáng Sinh này, chàng rể Giêsu sẽ mỉm cười với chúng ta, và sẽ đưa tay ra nắm lấy bàn tay chúng ta, để chúng ta lại nối vòng tay lớn cho mọi người anh em trên thế giới. Trên con đường đến với Ngài, chúng ta sẽ mời gọi tất cả mọi người kết đoàn với chúng ta, để cùng với chúng ta dâng lên tấm lòng yêu mến như một món quà Noel cho Chúa Giêsu Hài Đồng.
Lạy Mẹ Maria, mẫu gương chuẩn bị Lễ Giáng Sinh, xin cầu cho chúng con. Amen.
CUỘC VIẾNG THĂM ĐẦY ÂN SỦNG
Suy Niệm 1. ÂN SỦNG CỦA CUỘC THĂM VIẾNG
Ngày xưa, cuộc sống thật đơn giản, và người ta thăm viếng nhau rất nhiều. Ngày nay, sự thăm viếng không xảy ra thường xuyên như vậy nữa. Người ta sử dụng điện thoại để thay thế cho sự thăm viếng. Một cú điện thoại cũng tốt thôi, nhưng nó không thể thay thế được cuộc thăm viếng.
Có một phụ nữ sinh sống tại thành phố New York, bên cạnh một người hàng xóm trong suốt 30 năm. Bà ta không bao giờ có bất cứ cuộc cãi và nào với người hàng xóm đó, và mỗi khi gặp nhau, họ vẫn luôn luôn dừng lại nói chuyện với nhau. Nhưng trong suốt thời gian đó, bà ta chưa bao giờ đặt chân sang ngôi nhà của người hàng xóm. Thật là một điều đáng buồn, và có một sự mất mát nào đó.
Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi nữa. Chúng ta cũng trở nên phong phú, mặc dù chỉ là để xem cách thế người khác đương đầu với những khó khăn, hoặc những tình huống hầu như không thể giải quyết được. Thậm chí ở giữa những người đau yếu, bạn vẫn có thể tìm thấy một tâm hồn toả sáng. Có thể bạn đến thăm người đó, để đem lại cho họ điều gì đó, nhưng rồi bạn lại nhận ra rằng chính mình đang nhận được. Bạn ra về với tâm hồn phấn chấn. Trong mỗi cuộc thăm viếng, có điều gì đó xảy ra theo mức độ nào đó. Người này được vui mừng khi tiếp nhận, người kia được vui mừng khi cho đi.
Một vị linh mục trong xứ đạo kể lại việc ông đến thăm một người phụ nữ trẻ, đang chết dần chết mòn vì căn bệnh ung thư. Ông đến với hy vọng đem lại cho cô một chút an ủi. Sau cuộc thăm viếng này, ông ra đi với cảm giác là chính bản thân ông lại được an ủi. Ông kinh ngạc trước đức tin của cô và vẻ thanh thản mà cô cảm thấy, khi đối diện với cái chết. Nhờ được tiếp xúc với cô, đức tin của ông đã được đào sâu và củng cố thêm.
Trong bài Tin Mừng, chúng ta nhận thấy cuộc thăm viếng của Đức Maria đối với bà Elizabeth. Chính Mẹ cũng vừa mới được thiên sứ Gáprien viếng thăm, mang đến cho Mẹ tin vui rằng Mẹ trở thành Mẹ của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, thay vì bỏ đi và chỉ nghĩ đến mình, thì Mẹ lại vội vã đến thăm bà Elizabeth, một người cũng đang mong đợi con bà ra đời.
Bà Elizabeth là chị họ của Mẹ. Bổn phận đầu tiên và đáng quý nhất cảu chúng ta là cư xử tử tế với những người trong họ hàng, mặc dù đây không phải là một điều dễ dàng. Người trong họ hàng chúng ta có thể có tính cách rất hay đòi hỏi. Cuộc thăm viếng của Đức Maria mang lại ý nghĩa rất lớn đối với bà Elizabeth. Nhưng bản thân Mẹ cũng được ích lợi nhờ cuộc thăm viếng này. Bà Elizabeth đã nói những lời nói đẹp đẽ, mang tính cách xác nhận và củng cố đối với Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. So với Đức Maria, thì bà Elizabeth là người lớn tuổi hơn và có kinh nghiệm hơn, nên bà có thể giúp đỡ Đức Maria. Ở đây, chúng ta nhận thấy điều chủ yếu là cả hai người phụ nữ đều có tình trạng như nhau, nên có thể giúp đỡ nhau.
Bằng cách cho đi, chúng ta lại có thể được đón nhận. Một trong những biện pháp mà chúng ta có thể cho đi, đó là đến thăm viếng người khác. Lễ Giáng Sinh là một thời điểm tốt nhất, để thăm viếng những người mà có thể chúng ta đã quên lãng suốt bao năm qua.
Suy Niệm 2. ƠN PHÚC CỦA NHỮNG KẺ TIN.
Trong Tin Mừng, chúng ta có câu chuyện về cuộc thăm viếng của Đức Maria đối với bà Elizabeth, người chị họ của Mẹ. Trong suốt cuộc thăm viếng này, bà Elizabeth đã nói những lời nói đẹp đẽ, mang tính cách xác nhận và củng cố đối với Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Chủ đề về ơn phúc của những kẻ tin xuyên suốt bài Tin Mừng. Đối với kẻ tin, những điều tuyệt vời sẽ xảy ra. Sau đây là vài ví dụ:
Đức Giêsu nói với viên đại đội trưởng “Ông cứ về đi. Ông tin thế nào, thì được như vậy!”, và người đày tớ của ông ta đã được chữa lành (Mt 8,13). Đối với người phụ nữ bị băng huyết, Người nói “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Và ngay từ lúc đó, máu của bà ngưng không chảy ra nữa (Mt 9,22). Đối với hai người đàn ông bị mù, Người nói “Các anh tin thế nào, thì được như vậy!”, và họ đã được nhìn thấy trở lại (Mt 9,29).
Bạn có thể nói rằng chủ đề chính của Tin Mừng là ơn phúc của những kẻ tin. Tất cả lời rao giảng của Đức Giêsu đều có mục đích là nhằm khơi gợi lòng tin trong tâm hồn con người. Tuy nhiên, điều này không đơn giản chỉ là vấn đề về lòng tin, nhưng là tin tưởng và hành động dựa trên lòng tin đó. Đây là một vấn đề về việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa –chấp nhận rủi ro, và hy sinh vì Lời Chúa. “Trừ phi bạn hành động một cách phù hợp, đừng ngại nhìn nhận rằng bạn tin tuởng” (Catherine de Hueck Doberty).
Đôi khi, bạn nghe thấy có người nào đó nói “Điều này thật dễ dàng đối với bạn, vì bạn có lòng tin mạnh mẽ”. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Lòng tin không luôn luôn làm cho mọi sự trở nên dễ dàng. Trên thực tế, nhiều khi trái ngược lại. Bởi vì chúng ta có lòng tin, nên chúng ta lại từ chối không chịu từ bỏ. Lòng tin thúc đẩy chúng ta phải kiên nhẫn, phải đấu tranh, thường không được đảm bảo có được kết quả là hạnh phúc. Một người có lòng tin thì không bao giờ thoái lui.
Đức Maria được chúc phúc, bởi vì không những Mẹ đã tin, mà còn hành động theo lòng tin của mình nữa. Ngay sau khi sứ thần đến thăm, Mẹ vội vã thăm viếng bà Elizabeth. Từ điểm này, chúng ta nhận thấy rằng lòng tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề cảm xúc. Nhưng Mẹ đã chuyển lòng tin đó thành hành động cụ thể.
Đức Maria chính là người môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Đức Giêsu. Đây là nguyên nhân tại sao Giáo Hội đặt Mẹ làm một tấm gương cho chúng ta. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc, nếu giống như Đức Maria, chúng ta biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
Lễ Giáng Sinh là một dịp trợ giúp lớn lao đối với lòng tin của chúng ta. Bằng cách nào đó, chúng ta nhận thấy trong dịp Lễ Giáng Sinh, chúng ta dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn, so với bất cứ thời gian nào, bởi vì trong thời gian này, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta.
Điểm cốt lõi của Tin Vui chính là Thiên Chúa đã tự mình hiện diện với chúng ta, trong cuộc sống của một Đấng đi trên trái đất này. Thật vậy, chính Đấng này, Đức Giêsu, là Con Thiên Chúa, đã hiện diện một cách đích thực. Trong ngày Lễ Giáng Sinh đầu tiên, có cả những người tin lẫn những kẻ không tin. Tin Mừng nhấn mạnh đến ân sủng của những người tin vào Tin Vui.
Lễ Giáng Sinh làm cho chúng ta đi vào một tương quan thân mật với Thiên Chúa. Và Lễ Giáng Sinh cũng kêu gọi chúng ta cởi mở tâm hồn mình ra cho nhau. Và trong khi cởi mở tâm hồn mình ra cho nhau, chúng ta cũng đang cởi mở chính mình, để đón nhận “niềm vui lớn lao” đã được các thiên sứ loan báo cho những mục đồng.
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Những người rao giảng có khuynh hướng nhấn mạnh đến sự vắng mặt của Đức Kitô trong ngày Lễ Giáng Sinh, và lấy làm tiếc vì sự thương mại hoá của ngày lễ này. Sự thương mại hoá mang lại rất hiệu quả. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, tốt hơn là nên nhấn mạnh đến sự hiện diện của Đức Kitô, và giúp cho mọi người tìm thấy Người trong ngày lễ này.
Việc cử hành Lễ Giáng Sinh của chúng ta có nhiều tầng lớp. Trong một bài viết ở báo The Tablet (tháng 12, năm 1998). Anthony Philpot đã đồng nhất một số tầng lớp này.
Tầng lớp trên cùng là từ người tiêu thụ trong ngày Lễ Giáng Sinh, mà từ đó, những ngày này, không có được lối thoát nữa – họ cứ nhất định phải có những bài hát Lễ Giáng Sinh, những con tuần lộc, Ông già Nôen, và việc năng nổ mua bán tất cả mọi loại hàng hoá. Điều này làm gia tăng tính hám lợi nơi những đứa trẻ, tạo ra sự lo lắng về việc chi tiêu quá mức, và gây mệt mỏi cho người lớn. Đó là một ngày Lễ Giáng Sinh với một cốt lõi rỗng tuếch.
Kế tiếp là tầng lớp Charles Dickens –những tấm thiệp mô tả phong cảnh ngập tuyết, cảnh ồn ào của lò sưởi, gà tây, bánh mận, bánh thịt… Đó là một ngày Lễ Giáng Sinh của cảnh gia đình tụ họp với nhau, của sự thành tâm nơi tất cả mọi người, của tấm lòng nhân ái và cởi mở. Đối với họ, có nhiều điều để nói về những giá trị này. Hầu hết mọi người đều có phần đóng góp vào lối giải thích này về Lễ Giáng Sinh. Nhưng khi không có lòng tin, thì rốt cuộc Lễ Giáng Sinh là gì? Chỉ là một yếu tố kích thích nhỏ nhoi, một vài cách diễn tả sốt sắng, là việc cho và nhận một số quà tặng. Và rồi tất cả mọi sự đều trôi qua giống như lúc trước vậy.
Tầng lớp thứ ba là của máng cỏ, mà đối với chúng ta, đó là cách diễn tả về ngày Lễ Giáng Sinh. Đây là tầng lớp của vở kịch về cảnh Chúa Giáng Sinh, mà đối với tất cả mọi người, việc diễn tả đơn giản về ngày lễ này có thể gây xúc động sâu xa.
Tầng lớp thứ tư và mang tính cách sâu sắc nhất, chính là tầng lớp thiêng liêng. Đây là câu chuyện về một Hài Nhi đã được sinh ra như thế nào tại đất nước Israel, cách đây 2000 năm. Nơi con người của Hài Nhi này, Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản chất của chúng ta trên chính mình Người, và đã đi vào thế giới của chúng ta, trong sự yếu đuối và tình yêu thương của. Người đến để nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa, và được tiền định một cuộc sống đời đời.
Người ta có khuynh hướng gạt bỏ, hoặc thậm chí còn kết án ba tầng lớp đầu tiên, và coi như tầng lớp thiêng liêng mới là một tầng lớp đích thực duy nhất. Điều này dựa trên giả thiết rằng tầng lớp thiêng liêng và tầng lớp vật chất đối nghịch lại với nhau. Nhưng không phải là như vậy. Đạo Công giáo bao gồm cả tinh thần lẫn vật chất. Không thể có Lễ Giáng Sinh chỉ thuần tuý có yếu tố tinh thần mà thôi.
Điều mà chúng ta phải làm, đó là tìm ra được sự liên kết giữa nơi thị trường trần tục, và nội dung thiêng liêng của ngày lễ. Nhiều cảnh mua bán xảy ra trong ngày Lễ Giáng Sinh tạo thuận lợi cho việc trao tặng quà, những việc làm tốt đẹp, niềm vui và sự khẳng định các mối quan hệ trong gia đình –đưa đến kết quả trong việc cho và nhận.
Cách thế này giúp chúng ta nhận thấy tương quan gần gũi giữa tinh thần và vật chất, giữa những sự việc trên trời và dưới thế này. Chúng ta phải học hỏi được phương cách nào hoà nhập được cả hai yếu tố này. Vấn đề cốt lõi của tôn giáo chính là: Phải làm thế nào để hoà hợp được về mặt thiêng liêng và vật chất, xác thịt và tinh thần, bên trong và bên ngoài, bề mặt và bản chất.
Có những người cứ khăng khăng là cần phải có sự phân chia rõ ràng giữa thần thánh và con người, giữa yếu tố thánh thiêng và yếu tố trần tục, giữa linh hồn và thể xác. Nhưng chúng ta sẽ không tìm được điều đó trong ngày Lễ Giáng Sinh. Trong ngày này, những yếu tố đó đan xen với nhau, đến nỗi dường như chúng trở nên một, và cùng là một yếu tố.
11. Phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Vừa bắt đầu chúng ta đã thấy ngay đây là cách hành văn của Luca. Vừa gợi lên cuộc lên đường vội vã liền sau đó đã cho thấy lý do. Nếu Đức Maria vội vã lên đường, thì không phải là để tìm xem, lời thiên thần có đúng không, nhưng là để “vui với người vui” và đưa tới ơn phúc Mẹ giúp đỡ. Mẹ Thiên Chúa đã trở nên đấng trung gian các ơn phúc. Miền núi, cuộc hành trình hướng về đây là dãy núi miền cao nguyên Giuđa, kéo dài từ vùng Samari. Ngày nay không ai biết rõ đích xác thành phố mà Maria nhằm tới, một truyền thống đã có trước thời thập tự quân cho là đất làng Ain-Karim ngày nay. Làng này cách thủ đô Giêrusalem khoảng bảy cây số về phía tây. Khách hành hương nay tới kính viếng một nhà nguyện mang tên Thăm viếng. Từ Nadaret, phải bốn ngày đường mới tới nơi.
Lời chào thăm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa hướng về người được nhận lời chào, vì vừa nghe lời chào thai nhi trong bụng Elizabeth liền nhảy mừng và bà được tràn đầy Thánh Thần. Sự nhảy mừng này có một cái gì khác hẳn với sự cựa quậy của một thai nhi vào những tháng cuối cùng khi bà mẹ có một xúc động bất ngờ. Vì sự xúc động của Elizabeth không phải là nguyên nhân mà là kết quả của sự nhảy mừng của thai nhi Gioan. Thai nhi nhảy mừng vì tác động của ơn Chúa, là điều mà thiên sứ đã báo trước: “Con trẻ sẽ được đầy dẫy Thánh Thần ngay từ khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1,15), mà được thánh hoá nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể. Sau thai nhi, bà mẹ Elizabeth cũng được đầy tràn Thánh Thần, và lập tức bày tỏ niềm cảm xúc chẳng những bằng những lời được linh hừng mà còn bằng cả giọng nói xúc động. Vì bà nói lớn với Maria: “Em là người hạnh phúc nhất trong giới phụ nữ, và thai nhi trong lòng em là phước hạnh lớn lao”. Như thế bà đã diễn tả hai lời chúc phúc song song mà thiên sứ Gáprien đã nói với Đức Maria trước đó. Bà ca tụng cô em, đặt cô cao trọng hơn tất cả trong giới phụ nữ. Bà cũng cho thấy, ngay cả khi cô em chưa nói gì, bà đã biết Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế. Bà kính tặng cho thai nhi chưa được sinh ra danh hiệu “Chúa”, danh hiệu mà Thánh Vịnh áp dụng cho Đấng Mêsia trông đợi. Thật vậy, và đã thêm: “Thật vinh hạnh cho tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm”. Bà không chút nghi ngờ gì về điều đã xảy ra trong lòng cô em Maria và bà đã thấy rõ dấu chỉ: “Vì vừa nghe lời em chào, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy mừng”. Như thế bà cho biết có mối liên hệ lệ thuộc giữa thai nhi Gioan nhảy mừng với chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, bà bày tỏ đây là “hãy nhảy mừng”, và còn hơn cả cảnh núi đồi nhảy mừng mà Thánh Vịnh đã diễn tả trước sự hiện diện của Đấng Toàn Năng, vì đây là một thai nhi nhảy mừng vì được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Thế nào những lời ca tụng vừa đưa ra, bằng một kiểu kết điểm Elizabeth chúc phúc: “Thiên Chúa ban phúc cho em, vì em tin lời Ngài hứa sẽ thành sự thật”.
Qua đoạn Lời Chúa này, chúng ta học được gương yêu thương của Đức Maria:
Vừa mới thưa với Chúa: “Tôi là tôi tớ của Chúa” Đức Maria đã hành động như thể là tôi tớ của loài người. Ngay sau khi được loan báo được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria lên đường là vì muốn giúp đỡ và chia vui với người chị già. Qua lời loan báo, sứ thần cho thấy bà Elizabeth đang cần được giúp đỡ, vì bà sắp sinh con. Trong sứ điệp, sứ thần không bảo phải đi, chỉ gợi cho thấy. Thế là Maria thu xếp sẵn sàng ra đi, không để chậm trễ.
Dầu Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khoẻ nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, phải ít nhất bốn ngày dòng dã mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do để mà từ chối.
Những lý do trở ngại ấy không cản được Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Maria quét sạch mọi chần chừ và lưỡng lự đó. Từ xưa, Đức Maria đã quen quan tâm đến người khác hơn nghĩ đến chính mình, thì lúc này, Mẹ cũng không phải đo lường cân nhắc sự bất tiện của chuyến đi xa, Mẹ chỉ nghĩ đến việc cần giúp đỡ bà chị già, và cứ như thế, Đức Maria lên đường.
Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác hơn nghĩ tới chính mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải hao mòn chính bản thân mình. Khi xảy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do nãi ra để từ chối! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.
Lại còn phải tránh cho ta những tính toán ích kỷ, những điểm tựa để khỏi phải giúp đỡ tha nhân, thay vì sáng kiến để tránh khỏi, hãy tìm cách làm nhẹ gánh nặng cho tha nhân, để giúp đỡ họ.
Thay vì phải ép lòng giúp đỡ vì không thể tránh được, hãy biểu lộ thái độ mau mắn thực sự. Mong ước sao ta luôn ở tư thế sẵn sàng giúp đỡ, phục vụ.
Nhưng phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.
Chúa Giêsu rất yêu thương các môn đệ ở trần gian, Chúa Giêsu biết rõ Chúa Cha đã trao mọi quyền hành cho Ngài… Vì thế, Chúa đứng dậy, ra khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn quấn ngang lưng, Chúa đổ nước vào chậu, lần lượt rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1.3). Giờ đây chúng ta thấy Mẹ Chúa, người vừa được thiên sứ báo tin được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, người tự tình đi làm đầy tớ bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ Người biết Thiên Chúa đã ban cho Người địa vị cao cả hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả các phụ nữ Israel, một địa vị mà không một người phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó, Mẹ tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một người đàn bà trong lúc sinh nở nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.
Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Mẹ không muốn tỏ ra nhân vật quan trọng, dầu Mẹ quan trọng nhất trong các tạo vật. Không một ai có thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một người thiếu nữ đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ thấy nơi nhà ông bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất, và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng. Mẹ làm những công việc đó cho bà chị già như là làm cho Chúa. Mẹ luôn tỏ ra nhỏ bé để dường như Elizabeth không lấy làm ngại ngùng khi nhờ Mẹ làm bất cứ việc hèn hạ nào. và Mẹ không đặt một giới hạn nào cho tình yêu Chúa, Mẹ cũng không có một hàng rào cho tình yêu tha nhân. Không bao giờ Mẹ thấy một việc nào là quá thấp, là quá thường, quá hèn hạ. Mẹ đã làm với tất cả sự vui vẻ dường như không có ai nhận ra sự vất vả và đôi khi ghê tởm mà Mẹ đã phải âm thầm khắc phục. Với nụ cười của niềm vui buổi gặp gỡ đầu tiên, Mẹ đã duy trì gìn giữ bên trong nhà người thân này.
Thái độ mau mắn sẵn sàng giúp đỡ đó, chẳng phải chỉ giới hạn nơi nhà bà Elizabeth, tất cả những ai cần được giúp đỡ, Mẹ rất sẵn sàng, trong điều kiện và thời giờ cho phép. Ngay từ đó Đức Maria đã biết từng hoàn cảnh mà “làm tôi thiên hạ”. Thái độ đó đối với chúng ta, cũng như hẳn xưa kia đối với bà Elizabeth, luôn là đối tượng của lòng ngưỡng mộ kính yêu. Ngày nay chữ tôi tớ đã mang một ý nghĩa hèn kém hạ giá, không dám dùng, và nhất là thực hiện ý nghĩa của từ ấy. Ước chi chúng ta cũng lấy làm hân hạnh được phục vụ tha nhân.
Chúng ta phải khó khăn lắm mới thực hiện được giáo huấn của Đức Kitô: Ai lớn nhất hãy làm như người nhỏ nhất, ai làm đầu phải hầu thiên hạ. Gương Đức Maria còn đó để khích lệ: ai là đầu, ai có phúc hơn mọi người nữ, thế mà Mẹ trở nên bé nhỏ, trở nên rốt hết. Ai dám thống trị kẻ khác khi thấy gương Mẹ tự tình phục vụ như thế?
Mẹ cũng dậy nghệ thuật phục vụ trong những công việc tầm thường, tự chọn lấy cho mình những công việc nhọc nhằn, tởm gớm, tự tình thi hành với nét mặt vui tươi. Đã từng có một người tớ nữ không hề than trách công việc đè nặng trên vai, không bao giờ càu nhàu trong công tác phục vụ, đó là gương mẫu cho chúng ta!
Ngày nay trong vinh quang thiên quốc, Mẹ vẫn ân cần giúp đỡ tất cả mọi người, chúng con vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Mẹ, và Mẹ kêu gọi chúng ta cộng tác với Mẹ trong việc giúp đỡ mọi người.
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang sống. Đại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến. Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Chúa đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời: “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình riêng của Mẹ, và qua lời “Xin Vâng”, Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Chúa đảo lộn chương trình sống, và cùng Chúa bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Capharnaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.
Mẹ đã “suy đi nghĩ lại trong lòng” vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Đấng Cứu Thế vì Mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: “xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Đền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.
Chính vì Mẹ là Đền Thánh nên Đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat.
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm của thiên đàng.
Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Đức Maria và bà Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Đấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người.
Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ: Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta tìm thấy nơi Mẹ Maria một mẫu gương tuyệt vời, giúp chúng ta sống tinh thần mùa vọng và chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Thực vậy, Mẹ Maria cũng như nhiều người Do Thái khác đã đọc và suy gẫm Kinh thánh, đã mòn mỏi trông chờ và mong đợi Đấng Cứu Thế.
Với một tâm hồn trong sạch và nhất là với lời xin vâng dưới mái nhà Nagiarét trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã trở thành người đầu tiên được diễm phúc đón nhận Chúa vào cõi lòng của mình.
Thế nhưng, có Chúa trong tâm hồn mà thôi chưa đủ, Mẹ còn đem Chúa đến cho người khác. Phúc âm thánh Luca kể lại rằng: Sau khi hay biết, nhờ hồng ân Thiên Chúa, bà chị họ của mình là Isave cũng đã có thai trong lúc tuổi già, Mẹ đã vội vã lên đường, băng qua đồi núi để viếng thăm và giúp đỡ bà chị họ trong những ngày tháng mang nặng đẻ đau.
Nhờ cuộc thăm viếng này, Mẹ đã đem đến cho gia đình bà Isave niềm hân hoan vui mừng, hay nói cách khác, nhờ cuộc thăm viếng này, Mẹ đã đem Chúa đến cho già đình bà Isave, và cùng với sự hiện diện của Chúa là niềm vui mừng và hy vọng tràn đầy. Chính vì thế, Gioan tiền hô đã nhảy mừng trong lòng bà Isave.
Còn chúng ta thì sao?
Trong mùa vọng này việc thứ nhất chúng ta cần phải làm ngay, đó là hãy sống thế nào để thực sự có Chúa ở trong tâm hồn.
Đúng thế, như chúng ta vồn thường nói:
– Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt vời, còn tôi chỉ là kẻ tội lỗi xấu xa. Giữa Đấng thánh thiện tuyệt vời và tội lỗi xấu xa sẽ không có thành phần thứ ba, sẽ không có vị thế trung lập. Tôi phải dứt khoát chứ không thể lửng lơ con cá vàng, chơi trò đi nước đôi và bắt cá hai tay với Chúa. Đấng thánh thiện tuyệt vời và tội lỗi xấu xa sẽ không thể nào đội trời chung và sánh vai cùng bước đi bên nhau. Nơi nào có tội lỗi ngự trị, thì nơi đó không có chỗ cho tình thương của Chúa. Trái lại, muốn cho tình thương của Chúa ngự trị thì cần phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi.
Chính vì thế, chúng ta phải khử trừ tội lỗi, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, như lời kêu gọi của Gioan tiền hô:
– Hãy dọn đường Chúa đến. Quanh co uốn cho ngay. Gồ ghề san cho phẳng. Hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Việc thứ hai chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng, đó là hãy bắt chước Mẹ Maria mà đem Chúa đến cho người khác.
Đúng thế, qua hành động thăm viếng, Mẹ đã đem Chúa đến cho gia đình bà Isave thế nào, thì bằng những hành động bác ái và yêu thương, chúng ta cũng sẽ giới thiệu khuôn mặt đích thực của Đức Kitô cho những người chung quanh, để rồi cuối cùng, họ cũng sẽ nhận biết và tin theo Chúa.
Thánh Phanxicô Salêsiô nổi tiếng là một vị thánh hiền lành và nhân hậu. Ngài có một người giúp việc mắc phải tật nghiện rượu. Một hôm anh ta trốn nhà ra quán nhậu say bí tỉ, mãi tới khuya mới về, rồi nằm vật xuống ngưỡng cửa mà ngủ.
Nghe tiếng động, thánh nhân ra mở cửa. Thấy anh ta nằm đó thì nhẹ nhàng bồng anh về phòng, đặt anh ta trên chiếc giường của mình, còn mình thì nằm ngủ ở chỗ khác.
Ban sáng, vừa thức dậy, thấy mình nằm trên giường của thánh nhân, anh ta hoảng hốt vội chạy tới quì dưới chân thành nhân xin lỗi và hứa sẽ chừa bỏ rượu chè, hoán cải bản thân và làm lại cuộc đời.
Từ đó, anh ta đã dứt khoát với tật nghiện rượu và trở nên một người tốt lành.
Hãy khử trừ tội lỗi để trở nên người có Chúa trong tâm hồn, đồng thời bằng những hành động bác ái và yêu thương, hãy đem Chúa đến cho những người chung quanh. Đó là hai việc chúng ta cần phải làm ngay theo mẫu gương của Mẹ Maria trong mùa vọng này.
14. Viếng thăm chị họ Êlisabét.
Đoạn Phúc Âm mà Giáo Hội gởi đến cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa vọng kể lại biến cố Mẹ Maria đến viếng thăm bà Elisabéth liền sau khi được thiên thần truyền tin cho biết Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Một Ngài.
Chúng ta có thể hình dung được niềm vui sâu xa của Mẹ Maria sau khi đã khiêm tốn thưa vâng, chấp nhận cộng tác với chương trình của Thiên Chúa để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Mẹ do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài là niềm vui và chắc chắn Mẹ Maria trong lúc cưu mang Con Thiên Chúa trong cung lòng mình, Mẹ được diễm phúc hơn ai hết, sống kết hiệp với Con Mẹ vừa là Con Thiên Chúa và cũng vừa là Chúa của Mẹ.
Do đó, khi được hưởng nếm niềm vui, Mẹ đã mau mắn bộc lộ niềm vui mừng đó trong bài ca tạ ơn: “Linh hồn tôi chúc tụng Chúa”. Khi đến viếng thăm bà Elisabéth. Mẹ không giữ niềm vui đó cho chính mình, nhưng muốn chia sẻ với người khác. Sự hiện diện của Chúa nơi Mẹ càng giúp cho tâm hồn đã sẵn sàng quảng đại của Mẹ trở nên dịu dàng, quảng đại hơn nữa để nhìn thấy nhu cầu cần thiết được sự trợ giúp của anh chị em xung quanh.
Niềm vui và thái độ phục vụ quảng đại là hoa trái không thể chối cãi được của sự hiện diện của Thiên Chúa trong một người. Mẹ Maria là mẫu gương chỉ đường cho chúng ta, cho mọi đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô.
Điểm thứ hai đáng chúng ta chú ý trong lần gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Elisabéth là vai trò của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Mẹ điều mà không một quyền lực trần gian nào có thể làm được, đó là làm cho Mẹ trở nên Mẹ của Con Thiên Chúa mà vẫn duy trì trọn vẹn sự đồng trinh. Và Chúa Thánh Thần cũng hiện diện nơi bà Elisabéth để soi sáng cho bà nhìn ra giờ ân sủng đã đến, nhìn ra nơi con người đến thăm mình kia là Mẹ của Thiên Chúa.
Nhìn ra hạnh phúc đích thực của một người không hệ tại ở điều gì khác hơn là sự vâng phục kính tin vào lời Thiên Chúa: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”. Thực tại mà Mẹ Maria và bà Elisabéth đang sống không phải là thực tại phàm trần do con người tạo nên, nhưng là thực tại siêu phàm, thiêng liêng do Thiên Chúa thực hiện và con người chỉ có thể nhận ra nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần mà thôi, vừa đồng thời được mời gọi cộng tác vào đó nhờ qua thái độ khiêm tốn, vâng phục và kính tin.
Có những hoàn cảnh mà trong đó sự mới mẻ xuất hiện: một phụ nữ mang thai, một cây hoa sinh nụ, một gói quà sắp mở, một món ăn sắp lấy ra từ trong lò. Đó là những thời điểm kích thích thần kinh. Trẻ con nôn nóng xé tờ giấy gói quà, trở cái thìa trong đĩa. Những lúc mà vợ chồng đoán xem đứa con sẽ như thế nào. Thời gian chín mùi kết thúc, việc nảy sinh bắt đầu… vào thời giáng sinh đất trổ hoa đơm trái.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nhắc đến đất đai, nguồn gốc và tận cùng. Một trái đã sẵn sàng để được hái. Muốn đánh giá tốt hơn trái đó ta hãy phân tích mảnh đất sản xuất ra nó. Người ta nói: “Cây nào, trái ấy. Ruộng nào, lúa ấy”. Đất và ruộng ở đây là những đoạn Thánh Kinh chúng ta vừa nghe đọc.
Bài đọc một của ngôn sứ Mikêa đưa chúng ta trở lại mảnh đất tổ tiên. Chúa Giêsu xuất phát từ một dòng tộc, một lịch sử. Ngài nói tiếng nói của cha ông, mang một tên quen thuộc trong thôn xóm: “Hỡi Bêlem Epphata, chi tộc bé nhỏ nhất trong các chi tộc Giuđa, từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng sẽ cai trị Israel”.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ là con người lịch sử do bởi di sản đã nhận được. Ngài sẽ dấn thân trong lịch sử ấy, trong dòng chảy của biến cố. Ngài sẽ tham gia vào cộng đoàn của Ngài, như ngôn sứ Mikêa loan báo: “Ngài sẽ đứng lên và sẽ là mục tử của họ”.
Bài đọc hai, trích từ thư Do thái, nói đến một loại đất khác còn thân thiết với chúng ta hơn là mảnh đất của nền văn hóa chúng ta. Người ta nói đến chất liệu làm nên xương thịt của chúng ta. “Chúa không muốn hy tế và của lễ, nhưng Ngài đã tạo cho con một thân xác”.
Hoa quả của Giáng sinh đầu tiên là Thiên Chúa nhập thể bằng xương bằng thịt. Chúa Giêsu là con cái của mảnh đất xác thịt từ đó mỗi người được sinh ra. Hoa quả mong manh. Hoa quả dễ hư nát nhưng cũng là cái vỏ cần thiết. Chúa Giêsu không phải là một bóng ma, cũng không phải là một giấc mơ, lại càng không phải là một ông già Noel. Ngài là người bằng xương bằng thịt, và có lẽ không đẹp như người ta hình dung hay tưởng tượng.
Và đây là mảnh đất thứ ba sẽ ban cho chúng ta Chúa Giêsu: mảnh đất của con người. Một phụ nữ, Đức Maria. Một phụ nữ đi đến gặp gỡ kẻ khác, cởi mở đối với tha nhân: “Maria nhanh nhẹn lên đường, bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabét”.
Chúa Giêsu sẽ thuộc về mảnh đất này, thuộc về phẩm chất hữu thể này: là quả được chúc phúc từ lòng Đức Maria, như ta vẫn đọc trong kinh Kính Mừng, một quả được chúc phúc sẽ mang sự chúc lành đến cho kẻ khác, sẽ làm cho họ vui lên: “Bởi đâu tôi được diễm phúc Mẹ của Chúa đến viếng thăm tôi? Vì khi tôi nghe lời chào của em, hài nhi đã nhảy mừng trong lòng tôi”.
Vào dịp Giáng sinh những cuộc gặp gỡ thật quan trọng, những cuộc hội họp gia đình, bạn bè, chính là một trong những hoa quả tốt đẹp nhất của Giáng sinh. Những cuộc hội họp này là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thiên Chúa hiện diện chính là Chúa Giêsu: con người phát xuất từ một lịch sử và dấn thân vào lịch sử, con người bằng xác thịt, có thật, mỏng giòn, và con người của sự gặp gỡ. Và những mảnh đất này đã trổ sinh hoa trái tốt đẹp dường ấy cũng là những mảnh đất nơi chúng ta mọc lên. Vậy xin Chúa Giêsu làm nở ra nơi mỗi người chúng ta gương mặt của Ngài.
Hôm nay Chúa nhật thứ IV Mùa vọng, Giáo Hội trình bày cho chúng ta về hình ảnh của Mẹ Maria như là mẫu mực của người có niềm tin. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong lòng Mẹ đã thúc đẩy Mẹ lên đường đi thăm viếng bà chị họ Isave. Qua biến cố đó, Mẹ Maria đã thực thi hai giới răn căn bản nhất trong đạo, đó là mến Chúa và yêu người.
Tình yêu Chúa phải là sức đẩy con người tìm đến với tha nhân. Trong tâm tình chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Những chuẩn bị đón mừng Chúa đến của chúng ta có được cụ thể hóa bằng những sự đón tiếp chân thành mật thiết mà chúng ta đã dành cho tha nhân không? Những kẻ không nhà, không cửa, những người khốn khổ cùng tận có tìm được một chút nương tựa nơi lòng quảng đại của chúng ta không?
“Ngày ấy Maria chỗi dậy vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến với một thành xứ Giuđêa, Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave”. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã quen thuộc với những dòng trên đây, khung cảnh đã trở thành đề tài cho không biết bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật. Hai người thiếu phụ đang mang thai, có họ hàng với nhau, tìm đến gặp nhau để giúp đỡ nhau. Hơn nữa, Maria người em họ ở lại ba tháng với người chị họ của mình.
Chúng ta có thể tưởng tượng được những gì mà hai người đàn bà trao đổi cho nhau để giúp đỡ nhau, cũng như những lời tâm sự hỏi han mà họ chia sẻ cho nhau. Thế nhưng, thánh Luca tác giả đoạn Tin Mừng hôm nay đã không ghi lại một chi tiết nào về những giai thoại quí giá ấy. Nhưng trọng tâm của biến cố mà tác giả muốn nêu bật chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu tuy còn trong lòng Mẹ đã là nhân vật chính của bức tranh, Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Đó là tất cả những gì mà thánh Luca muốn làm nổi bật nơi biến cố Đức Maria đi thăm viếng người chị họ Isave.
Lời chúc tụng của bà Isave và sự nhảy mừng của Gioan tẩy giả đã được thánh Luca ghi lại, gợi lên cho chúng ta việc dân Do thái kiệu hòm bia Thiên Chúa về thành thánh Giêrusalem. Vua Đavid vừa nhảy múa trước hòm bia của Thiên Chúa, vừa kêu lớn: “Bởi đâu hòm bia Thiên Chúa đến nhà tôi”.
Đối với người Do thái trong Cựu ước, hòm bia giao ước có chứa đựng mười giới răn, chính là biểu tượng về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài. Mang Ngôi Hai Thiên Chúa trong lòng, Mẹ Maria cũng được ví như hòm bia của Thiên Chúa. Mẹ Maria chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa với Giáo Hội. Nhờ Mẹ Maria, Thiên Chúa trở thành Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở với con người. Niềm vui no thỏa của bà Isave và hài nhi nằm trong lòng bà cũng phải là niềm vui của chúng ta trong Mùa Giáng Sinh này.
Hằng năm cứ đến Mùa Giáng sinh, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta sống một cách sâu sắc chân lý căn bản nhất trong niềm tin của mình: Đó là Thiên Chúa làm người để mặc cho cuộc sống của chúng ta một chiều kích thần linh.
Hai người chị em họ gặp gỡ nhau, hai người đàn bà trò chuyện với nhau, đó là chuyện thường ngày như cơm bữa trong cuộc sống của chúng ta. Thế nhưng, chính do sự hiện diện của Chúa Giêsu mà cuộc gặp gỡ thường ngày ấy đã trở thành một biến cố, hay đúng hơn thành một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Do đó tất cả mọi sinh hoạt của con người dù là những việc làm vô danh phiền toái nhất cũng đều có thể là một thể hiện của một tình yêu Thiên Chúa, cũng đều có thể là một loan báo Tin Mừng. Thánh Phaolô đã không ngừng nhắc nhở chúng ta: “Dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm việc gì, anh em hãy làm sáng danh Chúa”.
Chúng ta hiệp nhau trong thánh lễ ngày Chúa nhật để cử hành bí tích tình yêu của Thiên Chúa. Bánh Thánh và Rượu Thánh tượng trưng cho cả cuộc sống của chúng ta, cũng như bánh và rượu ấy sẽ trở thành Mình và Máu Chúa Giêsu, thì toàn thể cuộc sống của chúng ta cũng được Chúa đón nhận để trở thành nơi gặp gỡ giữa Ngài và con người.
Gặp gỡ Chúa Giêsu trong những phút ưu việt trong thánh lễ đã đành, con người còn gặp gỡ Chúa qua từng phút giây sinh hoạt trong cuộc sống. Bàn thờ không chỉ ở trong nhà thờ, bàn thờ còn là cả cuộc sống. Chính cuộc sống với không biết bao nhiêu phấn đấu và hy sinh cùng với những cố gắng tin yêu phó thác. Đó chính là bàn thờ để gặp gỡ Chúa và loan báo Tin Mừng của Ngài cho mọi người.
Mẹ Maria là người lữ hành đức tin kiểu mẫu. Mẹ mang Chúa Giêsu trong mình, Mẹ đã sống từng phút giây trong cuộc sống như một cuộc gặp gỡ triền miên với Chúa, với tha nhân. Mẹ đã chỉ cho chúng ta con đường phải đi, đó là sống một cách sung mãn từng phút giây hiện tại, biến một phút giây hiện tại và cuộc gặp gỡ thành một lời loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu mà chúng ta đón nhận qua Bí tích Thánh Thể mang lại sức mạnh, để chúng ta cũng lên đường và sống như Mẹ Maria.
17. Chúa muốn chúng ta thăm và giúp đỡ tha nhân.
(Suy niệm của JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Ta học được những gì trong việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét? Thăm viếng có phải là một việc mà tình yêu đòi buộc phải có không?
2. Thăm viếng cũng là dịp đem Chúa đến cho người khác. Nhưng đem Chúa đến cho người mình thăm viếng bằng cách nào?
3. Giữa những hành động cụ thể biểu lộ yêu thương đích thực, và những lễ tế, kinh kệ làm theo thói quen, Thiên Chúa ưa chuộng cái nào?
Suy tư gợi ý:
1. Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương
Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Êlisabét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả. Chắc chắn việc Đức Maria đến thăm bà Êlisabét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Êlisabét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Đức Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế!
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói: «Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ», ngài gọi cái khổ ấy là «ái biệt ly khổ». Tục ngữ có câu: «Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!» (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Đến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.
2. Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương
Khi Đức Maria đến thăm bà Êlisabét, Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlisabét vui mừng, mà hài nhi trong bụng bà cũng vui theo mà «nhảy lên» trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Êlisabét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Đức Maria cùng với bào thai Giêsu chẳng những mang niềm vui, mà còn biến đổi hai mẹ con bà Êlisabét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.
Như thế, đến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Có những người nói về Chúa rất nhiều và rất hay, nhưng họ không thật sự có Chúa trong bản thân họ. Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đức Maria có nói gì về Chúa với bà Êlisabét đâu! Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
3. Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng
Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Do tình yêu vô biên phổ quát của Ngài, Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Nhưng hiện nay Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta. Khi ta đến với họ, Ngài cũng muốn ta coi họ như hiện thân của Ngài, nghĩa là như chính bản thân Ngài.
Ngài đã chẳng từng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi!» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài: «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…» (Is 1,11-15; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng!
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
18. Niềm vui của việc tin tưởng
Đức Maria “vội vã” lên đường. Đây là bước đầu của những chuyến đi trong thánh Luca, tác giả Phúc Âm chuyên viết về những con đường. Sách Phúc Âm của ngài chuyển động, cũng thế đối với quyển sách thứ hai của ngài, quyển Công vụ Tông đồ. Từ Nagiarét, sự cứu độ sẽ tiến về Giêrusalem, rồi sau Phục sinh, sự cứu độ sẽ bắt đầu chinh phục thế giới. Chúa Giêsu nói: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Thánh Phêrô giải thích các chứng nhân là những người “đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa chúng ta”.
Đây là bước truyền giáo đầu tiên: Đức Maria vội vã lên đường khi đang còn vang vọng lời truyền tin. “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”, Đức Maria vội vã đi xem sự kỳ diệu đầu tiên được loan báo: “Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”. Đức Maria tin điều ấy. Tất cả đều lạ lùng và bà tin. Một niềm vui xâm chiếm bà, thúc đẩy bà; niềm vui tin tưởng, niềm vui đi vào trong thời đại cứu độ và là người mở ra thời đại đó. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”.
Việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét chiếu sáng niềm vui của việc tin tưởng. Bà Êlisabét thốt lên nhiều lời vui mừng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”, “Tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”, “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đức Maria trả lời bằng bài ca Magnificat, bài hát vui mừng của người.
Luca cống hiến cho chúng ta niềm vui rất đặc biệt này của đức tin.: Thánh Thần. Thánh Thần xuống trên Đức Maria. Ngài tràn đầy trong lòng bà Êlisabét. Ngài tràn ngập nơi các môn đệ vào lễ Hiện Xuống. Ngài đầy tràn chúng ta khi chúng ta tin và công bố rằng Chúa Giêsu là Chúa, nghĩa là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, nhưng là Đấng Cứu Thế không như người Do thái nghĩ: Thiên Chúa ban Con Ngài cho chúng ta.
Đức tin và niềm vui của chúng ta tuỳ thuộc vào sức mạnh mà chúng ta tin vào điều đó. Chúng ta sa lầy trong những điều phụ thuộc. Chúng ta những Kitô hữu tranh luận với nhau vì những chi tiết thay vì sống trọn và loan truyền điều cốt yếu, mặc khải kỳ diệu: Con Trẻ sẽ sinh ra từ Đức Maria là Con Thiên Chúa. Có một bài hát khác phát xuất từ bài Magnificat, bài Benedictus: “Chúc tụng Chúa, Ngài đã viếng thăm dân Ngài”.
Đích thân Thiên Chúa đến viếng thăm chúng ta! Có nhiều điều phải tin: sự phục sinh của Chúa Kitô, sự hiện diện của Ngài trong Thánh Thể, việc tha tội lỗi cho chúng ta, chiến thắng cuối cùng của sự sống trên đau khổ và cái chết. Nhưng đối với tất cả những điều đó, đức tin của chúng ta sẽ dễ dàng và vững chắc nếu chúng ta bám rễ vào điều khó nhất: tin rằng Thiên Chúa đã đến trên các con đường của chúng ta: ‘Chúng ta đã thấy các bước chân của Thiên Chúa gặp gỡ các bước chân của con người’.
Để Ngài đến ở với chúng ta, phải có Mẹ Maria. Không gì có thể làm cho chúng ta tôn sùng Mẹ hơn là việc thấy Mẹ hạnh phúc biết bao khi tin và dâng hiến Con Trẻ để cho những niềm vui đầu tiên của đức tin bùng nổ. Muốn nói về Đức Maria, Công Đồng đã có từ ngữ rất đẹp này: Mẹ đã giới thiệu Sự Sống cho thế giới. Chính điều này đã làm con trẻ của Êlisabét nhảy mừng, và đó là điều làm chúng ta vui mừng trước mặt Đức Maria: Mẹ là Sự Viếng Thăm của Thiên Chúa, Mẹ giới thiệu cho chúng ta Sự Sống, Sự Sống trở thành sự sống của con người đối với chúng ta.
Nếu tin điều này là niềm vui của chúng ta thì chúng ta đừng quá che đậy niềm vui đó. Chẳng hạn trong một cuộc thăm viếng mà sự tiếp xúc có thể được thực hiện trong một chiều sâu nào đó, ai mà biết được? Trong khi lắng nghe chúng ta, hay có thể chỉ nhìn chúng ta mà thôi, một người nào đó có thể vui mừng.
19. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
THĂM VIẾNG
Cảnh này không có cảnh tương ứng thì không có gì lạ: kết quả của nó là việc thành công sự giao liên giữa chu kỳ của Gioan và chu kỳ của Chúa Giêsu. Việc gặp gỡ của hai phụ nữ mang thai cho phép liên kết hai em bé sắp sinh ra. Trong bố cục của Luca, thực ra vị tiên hô bị tống giam trước khi Chúa Giêsu Kitô đến nhận phép rửa (3,20-21).
Đề tài của cuộc hành trình xuất hiện lần đầu tiên trong một tác phẩm mà các nhân vật di chuyển nhiều: Lời bắt đầu lên đường và cuộc hành trình (mau lẹ) sẽ dẫn Lời đến tận La Mã, tượng trưng cho ranh giới cuối cùng của miền đất có người ở (Cv 1,8; 28,30-31). Việc ngự đến của thần khí tiên tri trên bà Elizabeth chắc chắn muốn nói rằng Thiên Chúa đang hành động; nhưng sự can thiệp thần linh này cần sự thông hiệp và suy tư của những con người; ở đây cũng như ở Cv 10 với cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Conêliô, Lời chính là sự gặp gỡ của các nhân vật.
Thực vậy, vai trò của các nhân vật không hoàn toàn thụ động. Khi đã nhận lời thiên sứ chào, Đức Maria liền chuyển giao lời ấy; và điều đó mở đầu cho tiến trình. Khi lời chào vang đến tai bà Elizabeth, con trẻ sắp sinh nhảy mừng trong dạ mẹ. Em được đầy Thánh Thần như sứ thần đã loan báo (1,15), em bé thấy hừng lên bình minh của thời đại mới và nói tiên tri bằng việc nhảy mừng và không phải bằng lời nói, khi hân hoan nhận ra sự hiện diện của Đấng mà thiên hạ đợi trông vào thời cuối cùng. Được đầy thần khí tiên tri, lúc ấy Elizabeth hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc vừa xảy ra trong lòng dạ bà; bà không chỉ bằng lòng nhận ra rằng Đức Maria và đứa con bà cưu mang là đối tượng cho phúc lành của Chúa. Bà còn tuyên xưng người bà con của mình là Mẹ của Chúa tôi; bà Elizabeth nói bằng chính môi miệng mình điều mà đứa con bà đã xác nhận bằng cách nhảy mừng: con của Đức Maria là Đấng Kitô, Chúa đã loan báo trong Thánh vịnh 110, câu 1 (được trích dẫn bởi Lc 20,41-44 và Cv 2,34-36).
Như vậy tiếng kêu lớn của bà Elizabeth như vậy trước hết có ý nghĩa Kitô học: điều được nói về mẹ lại đến trước sự cao cả của Người Con. Nếu Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế thì thật sự Ngài được chúc phúc hơn mọi phụ nữ. Tự nó, việc thụ thai đồng trinh đề cao Người Con chứ không phải người mẹ – như “Tin Mừng thời thơ ấu” của Mt 1-2 đã cho thấy. Tuy nhiên, Luca cũng lưu ý đến nhân vật Maria, và qua việc đó ông cho thấy một điều mới mẻ. Lời chúc phúc liên quan tới lòng tin của Đức Maria tự căn bản khác với cô thiếu nữ trong sách tiên tri Giacaria (c. 45) và những câu 42-45 cho phép Luca quy tụ trong Đức Maria hai cái phúc, phúc vì được làm mẹ và phúc vì có lòng tin mà ông tách rời ra trong đoạn 11,27-28. Khi tin rằng các lời của Thiên Chúa sẽ được thực hiện, Đức Maria trở thành mẹ; rõ ràng đức tin của người là thiết yếu để cho những lời ấy được thực hiện. Người là mẫu mực cho những ai nghe lời, là gương mẫu cho tín hữu, là Kitô hữu đầu tiên. Người ta cũng không coi thường việc Luca căn cứ vào lời cầu nguyện và suy tư sau này của Giáo Hội về người trinh nữ thành Nagiaret. Diễn ngữ Mẹ của Chúa chắc chắn cũng là dùng để tôn vinh Đức Maria: théotokos, mẹ của Thiên Chúa, cũng như lời nguyện cầu sẽ làm thành phần thứ hai của kinh “kính mừng”.
Lúc ấy, Đức Maria xướng lên bài thứ nhất trong bốn bài thánh ca của Lc 1-2. Đó là một bức tranh ghép toàn bằng những trích dẫn Cựu ước, theo bản dịch Hy Lạp Bảy Mươi. Như thánh ca của Anna (Sm 2,1-10) được Luca đường như khuôn mẫu, thánh ca ngợi khen này có một điểm nối kết với mạch văn, chỉ có câu 48 nối liền với trình thuật trước đó khi gợi lại một cách kín đáo việc truyền tin. Tuy nhiên, kinh Ngợi khen này có ý nghĩa của nó chính nhờ việc Luca đặt nó vào chỗ này. Vai trò của bản thánh ca này làm ta nghĩ đến vai trò của các giai điệu trong một bản nhạc kịch: cử điệu tạm thời bị ngưng lại và tiếng hát lời ca biểu lộ tâm lý của nhân vật trong cảnh hoặc ý nghĩa của biến cố.
Như bà Anna, người đã thụ thai một cách lạ lùng, Đức Maria bắt đầu bằng việc diễn tả điều Ngài cảm thấy (c. 46-47). Sau đó, tới lý do lời ngợi khen: bởi vì, lúc truyền tin, Người đã nhìn đến sự thấp hèn của nữ tỳ nữ Người và bởi vì, Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều kỳ diệu; lý do này bị gián đoạn giữa chừng bởi cái phúc của người tì nữ (c. 48b). So sánh bới St 30,13 thấy rằng: mọi thế hệ sẽ khen Đức Maria có phúc vì người con mà Ngài đang mang trong dạ chứ không phải do một công nghiệp cá nhân nào. Nhưng đồng thời, dường như Luca đã muốn bày tỏ qua điều diễm phúc này một thái độ tự nhiên của Kitô hữu đối với người mẹ đầy niềm tin của Chúa. Dù thế nào đi nữa, đối với nền tảng này của các suy tư sau đó về Đức Maria, điều đáng chú ý là từ câu này trở đi Thiên Chúa là chủ từ mọi động từ, trừ hai câu trong ngoặc này: Người chỉ được diễn tả là Đấng quyền năng, thánh thiện và nhân từ (c. 48-50).
Những câu 51-53 làm thành phần thứ hai cho thấy cảnh đổi lộn các tình huống và giá trị làm nổi bật bước chuyển từ thế giới này sang thế giới mới. Sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa, được bắt đầu với việc thụ thai con người, là Đấng Mêsia, sẽ ưu tiên xét xử công bình cho người thấp hèn, kẻ bị chà đạp. Đó là một suy tư mà Luca ưa thích và ông sẽ khai triển dài hơn khi trình bày các mối phúc và những nỗi bất hạnh (Lc 6,20-26) để giải thích luận đề này. Chúng ta hãy chỉ ghi nhận rằng bố cục của Luca đã đặt trên môi miệng Đức Maria một ngôn ngữ sẽ làm nổi bật tính cách hiển thị của Vương Quốc trong lời rao giảng của Đức Giêsu.
Trong phần kết, sự can thiệp có tính cách cứu độ bắt đầu thực hiện lời hứa với các tổ phụ, cho con cháu của Abraham (cc. 54-55). Luca cẩn thận không nói trước đến đề tài lương dân vào đạo, cũng như tô điểm cho bài thánh ca màu sắc Kitô học hậu-Phục Sinh.
Đức Maria ở lại nhà bà Elizabeth độ ba tháng. Đối với Luca, khoảng thời gian trong khi Đức Maria xa cách Giuse là một dấu chỉ, dưới mắt độc giả, xác minh cho việc thụ thai đồng trinh. Đồng thời, không có vấn đề Đấng Mêsia hiện diện – dù là trong dạ mẹ – vào ngày vị tiền hô sinh ra! Đức Maria trở về nhà mình.
20. Suy niệm của R. Gutzwiller
THĂM VIẾNG
1. Những sự kiện
Cuộc gặp gỡ giữa bà Êlisabét và Đức Maria mang nhiều ý nghĩa, một khi được liên kết với hai khung cảnh Kinh thánh ta thấy ở trên. Êlisabét biểu hiệu Israel: già cả, gia đình tư tế, bị son sẻ tự nhiên, và nhờ phép lạ của Thiên Chúa trở thành người mẹ có con cái sinh ra vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Maria tượng trưng cho Giáo Hội: trẻ trung, trinh tiết, thành người Mẹ nhờ phép lạ của Thiên Chúa, sắp sinh hạ là Đấng Messia, Đấng Cứu độ. Hai người mẹ mà việc làm Mẹ mang một tầm vóc lịch sử, đã tìm gặp nhau và cùng liên kết với nhau để cùng tụng ca vinh quang Thiên Chúa.
Maria lên đường đến thăm viếng phần vì –một cách rất tự nhiên- muốn thông dự vào biến cố vĩ đại và rồi bày tỏ tâm tình của mình, nhưng cũng vì muốn giúp đỡ và cuối cùng là đón nhận một dấu hiệu Thiên Chúa đã chỉ: như vậy, Mẹ đã đi sâu vào chương trình vĩ đại của Thiên Chúa.
Đằng sau tất cả những cái đó, người ta khám phá ra được sáng kiến, quyết định cá nhân của Mẹ. Một lời nói của Thiên Thần và sự thúc đẩy của ơn thánh đã đủ. Mẹ hiểu và Mẹ hành động. Tin mừng nói thêm là Mẹ vội vã. Ưng thuận thánh Ý Chúa, vâng lời tiếng mời gọi của Ngài thì không được chậm trễ và nặng nề, nhưng vui vẻ và lanh lẹ. Người nào đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa và được Thần Khí thúc đẩy, phải bước đi với tâm hồn hài lòng và tinh thần cởi mở, dầu trên con đường đầy khó khăn.
Việc Maria cất bước đâu phải việc tự nhiên. Một thiếu nữ trẻ tuổi tự ý làm một cuộc hành trình dài ba ngày đường, rồi ở lại cả mấy tháng trời xa nhà xa cửa, hẳn phải là cái gì gây kinh ngạc cho người Do thái thời đó- và có thể được coi là quá đáng. Nhưng Maria đã để kệ tất cả những cái nhìn phàm trần đó một khi muốn thực thi Thánh Ý Chúa.
2. Lời nói
Đức Maria đến chào thăm Êlisabét trong căn nhà của Giacaria. Chúng ta không biết đó là lời chào bình thường hay cùng lúc đó truyền đạt sứ điệp thiên thần đã cho biết liên quan đến biến cố kỳ diệu kia. Trong mọi trường hợp, lời nói của Đức Maria làm cho Êlisabét và con bà đang mang trong lòng một sự cảm động và nhiệt tình cả về tự nhiên lẫn thần hứng của Thánh Thần. Chính vì đó mà khi đáp lại lời chào, bà Êlisabét đã thốt lên với vẻ cảm động sâu xa: ‘Em có phúc hơn mọi người nữ, và hoa quả bởi lòng em thật đáng chúc phúc’. Phần đầu của Kinh Kính mừng được Thiên thần Chúa phát biểu, phần sau đã được Êlisabét xướng lên, và do đó bởi lòng thán phục của loài người. Sau này Giáo Hội đã thêm vào phần thứ ba trong ý nghĩa và theo tinh thần của con người tội lỗi.
Kinh Kính mừng như vậy hoàn toàn có nguồn gốc Kinh Thánh và Giáo Hội, đã là một trong những lời kinh đẹp nhất, sâu xa nhất, nhờ nó mà Êlisabét và Cựu ước nôí kết với Đức Maria và Tân ước, tất cả kết thúc bằng lời Giáo Hội, trong đó hết thảy đều quy tụ về.
Hoa quả của lòng Đức Nữ Trinh đã làm nên đối tượng cho việc vinh chúc, chính vì thế ta hiểu được tại sao Đức Mẹ đáng được ca tụng giữa hàng phụ nữ. ‘….Việc làm Mẹ của Đức Maria là một bí nhiệm của vẻ lớn lao của Mẹ, đồng thời cũng nói lên sự bí mật trong việc sùng kính Đức Mẹ của tất cả những ai suy nghĩ và tin tưởng theo Kinh Thánh.
‘Và bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến với tôi?’. Bà Êlisabét, dù đã cao niên, cũng nhận thức được và tuyên xưng sự nhỏ bé của mình, ngạc nhiên và sung sướng, ca tụng người em họ này ‘Mẹ của Chúa tôi’: bà biết trẻ nhỏ nằm trong lòng trinh nữ là ai, và trẻ này sẽ làm Chúa theo hai nghĩa của danh từ. Vì Ngài là Chúa của mọi người, nên cũng là Chúa của Bà và là Chúa là Vua của vị loan tin, của vị tiền hô mà Bà sắp sinh hạ.
‘Phúc cho em là kẻ đã tin: vì tất cả những gì Chúa đã phán với em, sẽ nên trọn’. Đức Maria thật đã cao cả trong sự kiện, và nhiệm vụ làm Mẹ của Chúa; Mẹ còn cao cả xét về cá nhân Mẹ, vì lòng tin vào sức mạnh và quyền năng của Lời Thiên Chúa. Đức tin này hoàn toàn nghịch laị với sự cứng tin của loài người.
Ngay từ khởi đầu lịch sử ơn cứu độ, đức tin đã được biểu hiện như một sự chấp nhận tiêng nói đòi hỏi, ưng chịu, mời gọi, ban ơn sủng, sinh hạ và tạo thành. Ơn Cứu độ đến từ Thiên Chúa, là công việc của Thiên Chúa. Tuy nhiên,con người phải đón nhận bằng sự sẵn sàng vì Thiên Chúa không thể bỏ qua sự cộng tác này. Hoạt động của Thiên Chúa đòi hỏi sự tham gia của con người. Sự tham gia, cộng tác này, chính là lòng tin biểu lộ ra bằng việc làm: đức tin sống động, câu trả lời quả quyết của cả con người đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa.
Êlisabét ca tụng Đức Mẹ, đó là Israel ca tụng Giáo Hội. Đó là việc Cựu ước thừa nhận Tân ước và đó cũng là sự kính trọng của dân cũ của Thiên Chúa đối với dân mới của Ngài.
Toàn cảnh trên đây đã tạo nên nền tảng cho việc sùng kính Đức Mẹ, vì sự sùng kính này rút từ nguồn gốc của lời nói và trình thuật Kinh thánh, diễn tả hai vẻ lớn lao của Đức Mẹ: lớn lao nơi con người và nơi nhiệm vụ của Mẹ, đồng thời lớn lao về tư cách làm Mẹ của Mẹ và sự sẵn sàng nơi đức tin của Mẹ.
Lời ca tụng của bà Êlisabét nối tiếp lời ca ngợi của thiên thần. Cả hai đã được tiếp tục qua môi miệng Giáo Hội và môi miệng của tất cả những người thấm thía lời văn cũng như tinh thần của Kinh Thánh và của Giáo Hội, đã không bao giờ để cạn khô lời tán tụng Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu.
Hồi ấy
Trong Mùa Vọng này, với Tin Mừng của Luca, chúng ta đã đi ngược dòng thời gian. Vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, ông đã yêu cầu chúng ta “ngẩng đầu lên” trước Đức Kitô vinh quang đang “hiện đến” trên đám mây trời: Đức Kitô Phục sinh hôm nay cũng là Đức Kitô ngày “cánh chung”. Chúa nhật II và III Mùa Vọng, Luca đã cho chúng ta quay lại 2000 năm về trước, vào thời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị cho tác vụ công khai của Đức Giêsu Kitô Nadarét. Chúa nhật thứ IV này, chúng ta lời đi ngược lên 30 năm nữa, tới thời mà Đức Giêsu mới chỉ là một phôi thai trong lòng một trinh nữ, Đức Maria và chúng ta cũng ở trong thời gian.
Còn vài ngày nữa là tới lễ Giáng sinh. Những ngày này, đường phố của chúng ta nhộn nhịp tưng bừng đón lễ, những cửa hàng đua nhau quảng cáo. Trong những ngày tích cực chuẩn bị lễ hội cuối năm này, chúng ta có dành một thời gian thanh thản nội tâm, để cùng suy niệm với Đức Maria, đang chờ đợi người con của mình ra đời không?
Bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa
Tên của Mẹ trong tiếng Hipri là Myriam, chắc chắn có nghĩa là “Công Chúa” hay “Bà lớn”.
Đoạn văn nói cho ta hay, “Bà hấp tấp chỗi dậy”, có thể nói ngay sau khi Thiên Thần báo tin. Sự phản ứng nhanh nhẹn này là một dấu chỉ. Đó là Lời Chúa đã thúc đẩy Bà lên đường. “Êlisabét, người họ hàng với Bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai… và nay đã có thai được sáu tháng”. Maria lên đường ngay tức khắc. Chúng ta hình dung ra Bà trong dáng vẻ đầy nhiệt tình và trẻ trung. Thái độ vội vã đó là dấu chỉ đức tin của Bà. Bà phải đi bộ 150km, không có xe hơi tàu hỏa gì cả! Bà đi về Giêrusalem. Air Kharim là một địa danh ở ngoại ô phía Tây của thành phố, cách 6km. Ngày nay đó là khu đại học y khoa Giêrusalem với bệnh viện lớn là Hadassah.
Nhưng đó không đơn thuần là một sự di chuyển địa dư. Đó cũng là một dấu chỉ. Cuộc hành trình này sẽ mở đầu cho hàng loạt những cuộc hành trình chứa đầy trong các trình thuật của Luca, một cách tượng trưng. Đường đi là nơi mạc khải và thi hành sứ vụ. Lời Chúa đã từ trời xuống Nadarét. Nay Lời Chúa đi từ Nadarét đến Giêrusalem, mở đầu cho biến cố quan trọng “lên thành Giêrusalem” để kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu. Và từ Giêrusalem Lời Chúa sẽ mở ra tới Samaria và đến tận cùng trái đất… đến cả tâm hồn tôi, nếu tôi biết lặng nghe Lời. Sự vội vã của Đức tin là một sự vội vã “thừa sai”. Luca là đệ tử của Thánh Phaolô, vị tông đồ đã đi dọc các con đường của đế quốc cùng với Luca (CVTĐ).
Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét
Bước đường của Lời Chúa trước tiên ở giai đoạn thân mật nhất, và trong khung cảnh sống tự nhiên nhất: “ở nhà”… “giữa những bà con”, ở đây là giữa hai chị em bà con. Đức tin luôn được thông truyền như thế!
Ông Dacaria bị câm, vì ông đã không chịu tin (Lc 1,20 – 1,64). Đây lại là một dấu chỉ có ý nghĩa. Ông Dacaria đáng thương, sẽ không thể nói một tiếng nào với hai bà trong thời gian gặp gỡ suốt 3 tháng (Lc l,56) chỉ có các bà nói chuyện với nhau. Chính các bà là những người đầu tiên có đức tin.
Lời chào của Maria là: “Shalom” có nghĩa là bình an, trong ngôn ngữ của bà. Chào? Dacaria và Elisabét sáu tháng trước vẫn còn là một đôi vợ chồng già buồn bã. Buồn vì không có con (Lc l,7). Bà Maria đã biết điều đó. Bà đến để chúc mừng người chị bà con và chia sẻ niềm vui với bà.
Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên.
“Đứa con nhảy lên trong bụng”. Đó là những từ cụ thể? Phaolô nói rằng, Luca là một y sĩ (Cl 4, 14). Chúng ta hiểu vì thế mà Luca đã lưu ý đến chi tiết này. Bất cứ phụ nữ nào đã làm mẹ, cũng đều nhớ đến giây phút khó quên đó giây phút mà hài nhi ra dấu hiệu đầu tiên về sự hiện diện của mình bằng cách cựa quậy. Có phải đó là biến cố tầm thường? Là hình ảnh văn chương ngây ngô? Là thứ tình cảm lỗi thời? Không, đối với Luca, đó là một quả quyết thần học, một “dấu chỉ” nữa? cũng như hai anh em sinh đôi Êsau và Giacóp đã nhảy múa trong bụng bà Rêbécca trước kia là vô sinh (St 25,22). Thiên Chúa đi trước con người, trong những ý định của Người: “ngay từ trong lòng mẹ”, ngôn sứ Giêrêmia đã biết rằng “Chúa biết mình” (Gr l,5). Cách nói này phải chăng là hạnh phúc?
Gioan Tẩy Giả bắt đầu vai trò của mình là ngôn sứ và nhân chứng cho Đức Giêsu Kitô! Chính ông báo trước cho mẹ ông biến cố vĩ đại đang sắp đến. Tại sao chúng ta lại cứ muốn hợp lý hóa mầu nhiệm? Đấy là một hiện tượng sinh học thông thường chăng? Phải, nhưng cũng là mầu nhiệm thần linh về sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn “đi trước” chúng ta.
Và bà được đầy tràn Thánh Thần
Đối với Luca, những trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu đã là một sự báo trước thời gian Phục sinh. Đó là Lễ Hiện Xuống cách tượng trưng, nhưng là một lễ Hiện xuống bên trong, không rực rỡ bên ngoài. Sau này Luca sẽ nói rằng, chính vùng Thần Khí Thiên Chúa đó sẽ “đổ xuống trên mọi xác thịt” (Cv 2,17-21 – Ge 3,l-5).
Chúng ta thấy rằng, Luca giúp chúng ta đọc lại biến cố Giáng sinh của Đức Giêsu theo ánh sáng của sự khai sinh Giáo Hội! Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là những sự kiện trên là ‘không có thực: Luca đã nhận biết những sự kiện đó từ các giới tham dự nghi thức thanh tẩy và họ hàng của Mẹ Maria, Đấng đã “ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy trong lòng” (Lc 1,66 – 2,19-51).
Liền kêu lớn tiếng và nói rằng
Từ Hy Lạp Luca dùng ở đây (anéphonèsén) trong toàn bộ Kinh thánh chỉ thấy xuất hiện trong đoạn này mà thôi, còn trong sách Sử biên niên (1 Sb 15,21 – 16,4.5.42 2 Sb 5;13) từ này chỉ được dùng nhằm diễn tả những câu “tung hô phụng vụ” để chào mừng khám giao ước. Chúng ta có thể dịch là: “Bà Elisabét đã lớn tiếng hát lên bài thánh ca này”.
Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.
Đa số các Kitô hữu đọc kinh Kính Mừng không biết rằng lời kinh của họ được trích từ đoạn Tin mừng này. Những từ này đã vượt qua nhiều thế kỷ trên mỗi tổ tiên của chúng ta, chúng ta sẽ để những từ này rơi vào lãng quên chăng? Chúng ta có thường đọc kinh Kính Mừng không? Có lần chuỗi Mân Côi? Những từ này cũng là một trích dẫn Kinh Thánh được dùng hai lần khác, đối với hai phụ nữ khác là Gia-en và Giuđitha (Tl 5,24 – Gđt 13,18). Hai phụ nữ đã cứu dân tộc họ vào những ngày nguy khốn nhất. Câu trích dẫn này có phải là ngẫu nhiên không?
“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ”: đây là một lời khen tặng của một phụ nữ đối với một phụ nữ khác: Luca lấy làm sung sướng nhấn mạnh về một trong những đề tài của ông trong Tin Mừng. Bí mật đầu tiên về Thiên Chúa không được giao phó cho người nam. Ngày nay có những phong trào đấu tranh để giải phóng phụ nữ. Có một số người cho rằng những phong trào đó là nhập nhằng. Nhìn dưới khía cạnh tích cực, những phong trào đó là một dấu chỉ thời đại, một dấu chỉ của Thiên Chúa. Mới đây một phong trào phụ nữ tự cho mình có nhiệm vụ “dám sống như phái nữ…dám nói Đức Giêsu Kitô thuộc phái nữ”. Điều này đã bắt đầu trong Tin Mừng thánh Luca. Trước cả các thánh Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ tuần (30 năm trước). Bà Elisabét đã được “đầy ơn Thánh Thần”. Ở đây trong bản văn Hy Lạp có dùng cùng một từ như trên. Ta có thể dịch là “‘quả trong lòng bà được chúc phúc”.
Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?.
Ở đây Luca lại trích dẫn một câu Kinh Thánh (2 Sm 6,9) nói về Vua Đavit, đã không tin rằng hòm bia giao ước lại có thể đến nhà ông. Khám giao ước đó là nơi hiện diện của Thiên Chúa. Từ đó về sau Đức Giêsu sẽ nói (Ga 2,19) rằng Thiên Chúa quyết định không cư ngụ trong những “đồ vật” phượng tự nữa, những căn nhà bằng đá, nhưng hiện diện trong thân thể “sống động” của Đức Kitô. Bạn đang tìm một Đấng Cứu chuộc, hãy mở mắt ra mà nhìn ngắm: Thai nhi nhỏ bé và mảnh mai này, đang hiện diện trong bụng Mẹ người… “Có phải chính Người là Con Thiên Chúa, đầy ân sủng và chân lý không ” (Ga l,14). Mầu nhiệm của Thiên Chúa còn đang giấu ẩn. Đó cũng là mầu nhiệm Thánh Thể.
Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng
Nếu dịch từng chữ theo bản văn Hy Lạp thì sẽ là: “Khi lời chào mừng của em vừa đến tai tôi, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy lên vì vui mừng (Cùng một từ “Koilia” thế mà ba dịch giả lại dịch ba cách khác nhau!).
Từ “giật mình” hay “nhảy lên”, gợi cho ta nhớ tới một vũ điệu bước khiêu vũ của Vua Đavit trước khám giao ước (2 Sm 6,15-16). Từ “vui mừng” (“agalhasis”) chỉ được dùng trong những Thánh Vịnh (90 lần!) và không bao giờ được dùng trong ngôn ngữ cổ điển Hy Lạp. Đó là sự vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự vui mừng của Chúa ban cho, không giống như những lạc thú trên đời. Đó là chủ đề vui mừng mà Thánh Thần ban cho, chủ đề điển hình của Thánh Lu ca “các người sẽ nhảy nhót như những chú bê bé nhỏ thoát ra khỏi chuồng” như ngôn sứ đã nói như thế (Mt 3,10). Còn chúng ta những người Kitô hữu thì sao?
Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.
Rõ ràng, toàn thể trình thuật này chìm đắm trong đức tin và chỉ có thể giải thích theo đức tin. Đức Maria đã được gọi là “có phúc”, vì Bà có đức tin: Bà đã tin. Đức Giêsu sẽ nói lại về “mối phúc” này, mối phúc hàng đầu. Khi nghe người ta ca tụng mẹ mình, Đức Giêsu nói ngay: “Nhưng đúng hơn: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28).
Mối phúc này có thể dành cho chúng ta. Trong đời sống, tôi có dùng thời giờ cho việc suy niệm Lời Chúa không? Giờ đây tôi bắt đầu kinh “Magnificat anima mea Dominum” “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”.
22. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC MẸ ĐI THĂM VIẾNG: CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN VÀ NHIỆM MẦU GIỮA ĐỨC GIÊSU VÀ GIOAN, VỊ TIỀN HÔ CỦA NGƯỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một cảnh liên hệ chặt với Truyền Tin
Trước khi cáo từ ra đi, Sứ thần Truyền tin đã chỉ dẫn cho Đức Maria một dấu chỉ: “Kìa bà Elisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là “hiếm hoi”, mà nay đã có thai được sáu tháng”. Thế là Đức Maria, hình ảnh Giáo Hội truyền giáo người mang Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, tức thì “vội vã lên đường đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”. H. Cousin nhận định: “Luận đề về con đường xuất hiện lần đầu tiên trong một công trình, ở đó các nhân vật di chuyển nhiều. Lời khởi sự cuộc hành trình, và cuộc chạy (“lanh lẹ”) (của Lời cuối cùng dẫn Lời tới Rôma, biểu tượng của những miền đất xa xôi có người ở” (Cv 1,8. 28, 30-31) (L’ Evangile de Luc”, Centurion, trg 30).
Chúng ta chẳng được biết gì hơn về cuộc hành trình của Đức Mẹ xuống miền Nam. Như cha Lagrange tính toán, thì cuộc hành trình ấy có thể phải mất bốn ngày. Chủ tâm của tác giả Luca là muốn tập trung vào lúc tới nơi để có thể tạo cảnh làm nhịp cầu nối kết hai giai đoạn mà trước đây Luca đã triển khai riêng rẽ: giai đoạn của Gioan Tẩy Giả và giai đoạn của Đức Giêsu.
2. Cho biết số mệnh nhiệm mầu của hai con trẻ sắp sinh ra.
Trong cảnh Truyền tin, Đức Maria vừa mới nhận được lời chào của Thiên thần, liền chuyển lời chào ấy tới người chị họ của mình: “Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Elisalbét”. F. Bovon nhận xét, “Trong những chương này có nhiều lời chào hỏi, vì có nhiều cuộc gặp gỡ, bởi lẽ là Thiên Chúa can thiệp và khai mào ơn cứu độ thông qua những mối tương quan của con người” (Tin Mừng theo thánh Luca 1-9, Labor et Fides, trg 86). Và lời chào hỏi của Đức Maria châm ngòi cho tiến trình ấy. Khi lời chào ấy vừa lọt tai bà Êlisabét thì đứa con trong bụng bà nhảy lên; một sự nhảy mừng mà bản dịch đã dùng một từ làm giảm đi sức mạnh, bởi vì nguyên văn tiếng Hy Lạp là “nhảy cẫng lên”, “nhảy tung lên”, “nhảy múa”.
Vì được đầy tràn Thánh Thần, ngay cả trước khi chào đời, nên Gioan nhìn thấy bình minh của kỷ nguyên mới đang ló dạng và bằng cách thi hành trước sứ mệnh của mình; như vậy ông nói tiên tri không phải bằng lời nói, nhưng bằng cử động nhảy tung lên, rằng Đấng mà người ta trông đợi đến vào ngày tận thế, thì từ nay người đang có mặt đây rồi: “Thiên Chúa không chỉ dùng những lời nói, mà còn sử dụng cả ngôn ngữ của thân xác nữa”. F. Bovon còn nhận xét thêm như vậy.
+ Được đầy tràn Thánh Thần, bà Êlisabél đọc được ý nghĩa của động tác con trong bụng mình nhảy lên vui sướng và ý nghĩa của cuộc hội ngộ mà bà đang sống.
+ Bằng một tiếng kêu lớn bà tỏ vẻ ngỡ ngàng, bà Êlisabét nhìn nhận rằng Đức Maria và “hoa trái của lòng” mà Maria đang cưu mang đều được Chúa chúc phúc.
+ Rồi bằng danh hiệu “Thân mẫu Chúa tôi”, bà tung hô người con của người em họ mình là Đấng mà Tv 109,1 đã loan báo, Đấng Kitô Đức Chúa.
+ Sau cùng theo hình thức một mối phúc, bà tán tụng lòng tin của Đức Maria. “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đức Maria “đã cưu mang trong tinh thần trước khi cưu mang trong thân xác mình”, điều mà thánh Augustinô sẽ chú giải sau này.
H. Cousin viết: “Mối phúc về lòng tin của Đức Maria, phân biệt tự căn bản người thiếu nữ ấy với ông Dacaria (câu 45) và những câu 42-45 cho phép Luca kết hợp lại trong chính bản thân Đức Maria hai mối phúc: phúc được làm mẹ Thiên Chúa và phúc vì có lòng tin; sau này ở 11, 27-28, hai mối phúc ấy lại được Luca tách riêng ra. Nhờ tin rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói, Đức Maria được làm mẹ: lòng tin của Người cần thiết để Thiên Chúa phải thực hiện những gì Người đã nói! Đức Maria là điển hình kẻ nghe Lời Chúa, là mô hình của người có lòng tin, là tín hữu đầu tiên. Bởi vậy, ta không nên coi thường phần Luca đóng góp vào kinh nguyện và suy niệm của Giáo Hội sau này liên can tới Đức Trinh Nữ Nadarét. Không ai chối cãi được rằng kiểu nói ” Thân Mẫu Chúa ” cũng là phiến đá đặt nền cho tước hiệu đầu tiên sau này, tước hiệu mà cả hai Giáo Hội Rôma cũng như Chính Thống sẽ tôn phong và ca mừng Đức Maria: “Théotokos”, “Mẹ Thiên Chúa”. (“L’evangile de Luc”. Centurion. trg 31)
BÀI ĐỌC THÊM
1. Thăm viếng: gặp gỡ giữa hai người phụ nữ, giữa hai con trẻ, giữa hai giao ước
(H. Voulliez, “Dieu si proche”, Desclée de Brouwer, trg 17- 18).
“Thánh Kinh là cả một chuỗi dài những cuộc viếng thăm mà Thiên Chúa đã thực hiện với dân Người. Mặc dầu những bất trung thất tín của con người, và đôi khi vì chính những bất trung ấy mà từ chín tầng trời cao thẳm, Thiên Chúa vẫn thường xuyên ngự xuống trần gian. Một ngày kia, qua trung gian Sứ thần Gabrien, Người loan báo cho một thiếu nữ làng Nadarét, là Maria, biệt tin con Người đến. Tức thì người thiếu nữ ấy lên đường đi “thăm” người chị họ của mình là Êlisabét.
Hai người phụ nữ gặp nhau, và qua họ hai con trẻ là Gioan và Giêsu cũng gặp nhau. Rồi qua hai con trẻ ấy. hai Giao ước cũ và mới gặp nhau. Tường thuật của Luca về khoảnh khắc có một không hai này có giá trị còn hơn một trang sử giáo dục. Cuộc viếng thăm này mở ra một tương lai cực kỳ mới lạ. Từ nay qua trung gian con người, qua người con đã làm người mà Thiên Chúa viếng thăm nhân loại. Và cũng chính khi thăm viếng người ta, là ta thăm viếng Chúa vậy. Trong chuyến viếng thăm cuối cùng của Chúa vào ngày tận thế, người ta sẽ kêu lên ngỡ ngàng: “Nhưng có khi nào chúng tôi đã viếng thăm Chúa đâu? Và Chúa sẽ đáp lại họ: “Mỗi lần anh em thăm viếng những người ốm đau, nghèo khổ.. và bất cứ ai khác, là anh em đã thăm viếng chính Ta, anh em đã mở ra trên trần gian này, những con đường xuyên đồi đậm tình nghĩa thiết đời đời vậy “.
2. “Cùng với Đức Maria hãy tin vào Thiên Chúa Đấng làm được mọi sự ngay cả những điều không thể được”
(G. Boucher, trong “Le ciel sur la terre”).
“Thế là lịch sử chuẩn bị sang trang, để khai trương một kỷ nguyên mới. Vậy mà thế giới vẫn chưa biết điều ấy. Chẳng bao lâu sau, một phần lớn nhân loại sẽ bắt đầu tính số năm và thể kỷ từ một biến cố có vẻ như không có gì quan trọng cả.
Người ta còn gọi thêm nữa là: năm một sau Đức Giêsu Kitô, thế kỷ thứ nhất sau Đức Giêsu Kitô, hai ngàn năm sau Đức Giêsu Kitô.
Trong niềm trông đợi ơn mạc khải về thế giới mới này, rất cả đều tuỳ thuộc vào quyết định của một người phụ nữ rất bình dị. Chỉ một mình người phụ nữ khiêm tốn, không tên tuổi ấy đang nắm giữ bí mật của đất và trời. Người phụ nữ ấy là MARIA, đang mang trong máu thịt mình; những lời hứa về một người con cùng chung một bản tính với Cha trên trời.
Những bà con của Người đã lấy làm lạ lùng. Trong nhà Dacaria và Êlisabét, người ta linh cảm rằng ơn làm mẹ của người em họ trẻ tuổi này là do lời Chúa hứa.
Thật là tuyệt vời khi nghe người phụ nữ sơn cước ấy chúc tụng một phụ nữ làng quê Nadarét, đồng thời cũng chúc tụng luôn cả hài nhi mà phụ nữ Nadarét ấy đang cưu mang và hài nhi ấy không bao lâu nữa sẽ cho người ta biết mặt và kế hoạch cứu nhân độ thế của mình!
Bà Êlisabét nhờ lớn tuổi hơn nên được đặc ân nhận ra một dấu lạ của trời ngay trong tư cách làm mẹ của bà; bà cũng phát hiện cùng một dấu lạ như thế nơi người em họ còn trẻ măng của bà. Khi nghe con mình nhảy mừng trong bụng, bà ức đoán rằng người em họ của mình là một người mẹ dã cùng với Thiên Chúa dấn thân trong cuộc phiêu lưu này.
Ai sẽ nói hết được những nỗi niềm và tâm tư mà hai chị em chia sẻ cho nhau lúc ấy? Ai sẽ kể hết được những lời kinh tuyệt vời mà hai người mẹ ấy cùng dâng lên? Bởi vì Tin Mừng vẫn luôn luôn nhấn mạnh đến một điều, đó chính là lòng tin của hai người phụ nữ này. Nên hạnh phúc thật mà họ có được là vì người này cũng như người kia đều đã tin vào một điều không thể xảy ra được.
Gần tới lễ Giáng sinh, chúng ta tán tụng lòng lin của Đức Maria. Một lòng tin đưa Mẹ đến dấn thân hào một chuyến đi không biết trước hậu quả, trên những miền đất của thiên Chúa. Một lòng tin khiến Mẹ mạo hiểm mang theo gánh nặng Chúa trao, để lặn lội vượt đèo lội suối đi tới nhà người chị họ Êlisabét. Một lòng tin vào Thiên Chúa Đấng làm được mọi sự. Một lòng tin tuyệt đối.
Ta hãy mừng vui ngây ngất trước nhan Mẹ! Nhưng còn mừng vui hơn nữa trước một Thiên Chúa dám chọn con đường của phàm nhân để bắt liên lạc với nhân loại.
Bởi lẽ Đức MARIA cho phép ta nhận ra ân huệ Chúa ban cho Mẹ do lòng tin, ân huệ mà Thiên Chúa cũng có ý định ban cho mỗi người chúng ta. Ta có biết đáp lại kế hoạch của Chúa dành cho ta bằng cũng một niềm tin phó thác như Đức Maria không?
Phúc thay nếu ta tin rằng “Không có gì mà Thiên Chúa không làm được!”.