Tam Nhật Vượt Qua: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa

TAM NHẬT VƯỢT QUA
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa

Mục Lục

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

  1. Tình yêu trọn hảo – ĐGM Jos. Vũ Văn Thiên
  2. Bữa tiệc Vượt qua – Lm. Calôrô Hồ Bặc Xái
  3. Bữa tiệc huynh đệ thánh thiêng – Lm. Jude Siciliano, OP
  4. Linh mục sống cho người nghèo – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  5. Người đã yêu thương họ – Giuse Đỗ Huy Hoàng, OP
  6. Hãy canh thức với Thầy – Lm. Jos. Vũ An Tôn, OP
  7. Yêu cho đến cùng – Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
  8. Đỉnh cao của mầu nhiệm cứu độ là tình yêu – Lm Jos. Vinc Ngọc Biển
  9. Nỗi buồn Giuđa – Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
  10. Yêu thương đến cùng – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
  11. Lòng thương xót tỏa sáng – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
  12. Cái chêt cứu chuộc – Lm. An tôn Nguyễn Văn Độ
  13. Tiệc ly, bữa tiệc cứu độ – Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
  14. Yêu thương đến cùng – Trích Logos B

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

  1. Tôn kính Thánh giá – Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
  2. Thông điệp từ Thập giá – Lm. Thiện Duy
  3. Thập giá, sứ điệp của Tình yêu – Văn Tịnh, OP
  4. Suy tôn Thánh giá Chúa – Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
  5. Suy niệm cuộc khổ nạn Chúa Giêsu – Lm. Dom. Đinh Viết Tiên, OP
  6. Buổi chiều thinh lặng thánh – Jos. Vinc Ngọc Biển
  7. Thập giá, ô nhục và vinh quang – Trích Logos B
  8. Tình yêu Thập giá – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

THỨ BẢY TUẦN THÁNH

  1. Đã thấy và đã tin – Chú giải của Noel Quession
  2. Ngôi mộ mở tung và trống rộng – Chú giải của Fiches Dominicales
  3. Đêm thánh – Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
  4. Tình thương của Thiên Chúa đối với nhân loại – Đức Cố TGM Phaolô Bùi Văn Đọc
  5. Niềm vui và bình an của Đức Kitô Phục sinh – ĐGM Giuse Nguyễn Năng
  6. Ánh sáng Chúa Kitô – Lm Nguyễn Ngọc Long
  7. Vui lên toàn trái đất – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  8. Gặp gỡ Đấng Phục Sinh – Trích Logo B

 THỨ NĂM TUẦN THÁNH

1. TÌNH YÊU TRỌN HẢO ĐGM Jos. Vũ Văn Thiên

Với kinh Vinh Danh được long trọng xướng lên trong thánh lễ chiều nay, chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tam nhật thánh. Khởi đi từ căn nhà nay được gọi là “Nhà tiệc ly”, Chúa Giêsu bắt đầu bước vào cuộc khổ nạn.

Bức tranh do danh họa Leonardo Da Vinci, người Italia, mang tựa đề “Tiệc Ly” hay “Bữa tối cuối cùng – Last supper” là bức tranh sơn tường đầu tiên được khởi vẽ năm 1495 và hoàn thành năm 1498, trên bức tường của một phòng ăn tập thể ở Nữ tu viện Santa Maria delle Grazie, Milan, Ý. Đây là một tác phẩm bất hủ đã góp phần đem lại danh tiếng cho nhà họa sĩ. Các tông đồ được chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm ba người. Mỗi vị tông đồ đều được diễn tả trong tâm trạng ngỡ ngàng đến mức thất kinh, hoảng sợ. Họ vừa nghe Chúa nói: “Có một kẻ trong anh em sẽ nộp Thày ”(Ga 13,22). Riêng Giuđa, kẻ bán thày, thì vẫn thản nhiên. Sự lạnh lùng được thể hiện rõ trên khuôn mặt. Không những thế, họa sĩ còn thể hiện khuôn mặt Giuđa với màu sậm. Phải chăng, ông muốn diễn tả, sự giảo quyệt gian dối hiện rõ cả nơi khuôn mặt của người tông đồ phản bội?

Trong bối cảnh đó, Đức Giêsu được diễn tả như một người bình thản. Người điềm tĩnh giữa phong ba, như Người vẫn điềm tĩnh khi thuyền gặp bão trên biển hồ, khi phải đối diện với Philatô, với Hêrôđê, với những người biệt phái và dân chúng bị kích động đang căm ghét Chúa.

Chính trong bối cảnh này, Chúa Giêsu hiến mình làm của ăn của uống cho các môn đệ, và qua các môn đệ, Chúa Giêsu nuôi dưỡng ngàn thế hệ mai sau. Người ta thường trao quà tặng trong lúc vui vẻ hạnh phúc và cho những người trung thành có công trạng. Chúa Giêsu trao ban chính mình trong một bữa ăn mà mọi người tham dự đều có tâm trạng hoảng loạn và có người phản bội. Chúa trao ban thân mình để bày tỏ tình yêu thương và giúp họ can đảm đón nhận mầu nhiệm thập giá gần kề.

Ngày hôm nay, hai mươi thế kỷ sau biến cố Tiệc ly, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trao ban thân mình cho nhân loại. Mỗi khi linh mục dâng lễ, qua lời truyền phép, bánh trở nên Mình Chúa, rượu trở nên Máu Chúa. Bức tranh “Tiệc ly” cũng vẫn đang thể hiện cuộc đời này. Trước lời mời gọi đến đón nhận Mình Thánh Chúa Giêsu, có nhiều người nhiệt thành sốt sắng, nhưng cũng có những kẻ dửng dưng lạnh lùng, thậm chí có người lại lộng ngôn phạm thượng. Tại “Bàn-tiệc-cuộc-đời” này, tôi mang khuôn mặt nào trong số các tông đồ? Trong “cõi người ta” đầy bon chen bận rộn, Thánh Thể vẫn hiện diện, âm thầm và sâu lắng, như bằng chứng của một tình yêu tự hiến, yêu cho đến cùng, yêu hết mọi người dù gặp nhiều phản bội dối gian.

Thánh Thể là Bí tích của tình yêu thương. Ai đón nhận bí tích này đều được mời gọi thực hành đức bác ái. Người tín hữu không có đức bác ái sẽ đi ngược với ý nghĩa của bí tích này. Trong khi các tông đồ hoảng loạn thất kinh, Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ tới: Người bưng chậu nước đi rửa chân cho từng người trong họ, kể cả chân Giuđa, người tông đồ phản bội. Chúa không chỉ rửa chân cho những người luôn ở bên cạnh Chúa như Phêrô, Gioan và Giacôbê mà bỏ rơi những tông đồ khác. Đó là cách hành xử của con người theo kiểu sòng phẳng có trao có nhận. Chúa bao dung và nhân hậu với hết mọi người. Cử chỉ rửa chân được chính Chúa lý giải liền sau đó: “Nếu Thày là Chúa, là Thày, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thày đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thày đã làm cho anh em” (Ga 13,14-15). Như thế là đã rõ, cử chỉ của Chúa Giêsu vừa là nghĩa cử khiêm nhường yêu thương, vừa là một bài học nêu gương và một lệnh truyền cho các tông đồ hãy bắt chước người.

Hãy thinh lặng âm thầm cầu nguyện bên Thánh Thể để học sống yêu thương và hy sinh cho người khác. Chúa Giêsu hiến thân vì con người, nhưng con người lại quá so đo tính toán khi hiến thân cho Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Sứ điệp Mùa Chay năm 2015 này, đã nói đến sự dửng dưng vô cảm của con người đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại. Thiên Chúa không bao giờ dửng dưng trước nỗi đau của con người. Chúng ta hãy học nơi Thánh Thể tình yêu thương và sự hy sinh, phục vụ vì hạnh phúc của những người xung quanh.

Sống màu nhiệm Thánh Thể không dừng lại ở việc rước Mình Thánh Chúa, mà còn được thể hiện qua những nghĩa cử yêu thương, tha thứ, hài hòa trong cách đối xử với tha nhân. Đó là tình yêu trọn hảo và là lời mời gọi của thánh lễ chiều thứ Năm Tuần thánh. [Mục Lục]

 

2. BỮA TIỆC VƯỢT QUA Lm. Calôrô Hồ Bặc Xái

Sợi chỉ đỏ

– Bài đọc I : Lễ vượt qua đầu tiên của dân do thái.

– Đáp ca : Lời nguyện tạ ơn sau bữa ăn vượt qua.

– Bài đọc II : Bữa ăn vượt qua của các kitô hữu

– Tin Mừng : Tường thuật bữa tiệc vượt qua của Chúa Giêsu với các môn đệ.

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến. Ba ngày Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh được gọi là Tam Nhật Vượt Qua và là đỉnh cao của năm phụng vụ. Thời gian cao điểm này bắt đầu bằng Thánh lễ chiều hôm nay, nhắc lại việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh thể và Chức Linh mục. Mỗi lần chúng ta dâng Thánh Lễ là chúng ta hiện tại hóa hy tế Thập giá, nhất là Thánh lễ chiều hôm nay.

Ngày xưa các tông đồ đã vây quanh Chúa Giêsu bên bàn Tiệc ly. Chiều nay chúng ta cũng thế. Chúng ta hãy có cùng một tâm tình, cùng một đức tin và cùng một lòng mến như các tông đồ để dâng Thánh lễ này.

GỢI Ý SÁM HỐI

– Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta tuyên xưng rằng “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết”. Nhưng chúng ta có dâng Thánh lễ với tâm tình của người chứng kiến cái chết đau đớn của Chúa Giêsu không ?

– Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta tuyên xưng tiếp rằng “… và tuyên xưng việc Chúa sống lại”. Nhưng chúng ta có thực sự xác tín rằng Chúa đã sống lại và đang sống với chúng ta cách thân thiết trong Thánh Thể không ?

– Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta còn tuyên xưng tiếp rằng “… cho tới khi Chúa lại đến”. Nhưng chúng ta có thực sự hợp tác với Chúa để biến đổi thế giới này trong khi chờ đợi ngày Chúa lại đến không ?

LỜI CHÚA

Bài đọc I : Xh 12,1-14

Hàng năm dân do thái vẫn kỷ niệm ngày họ được giải phóng khỏi ách nô lệ ai cập bằng một bữa tiệc gọi là Tiệc Vượt qua. Đoạn sách Xuất hành này ghi lại những quy định tỉ mỉ về việc chọn con chiên vượt qua và về những nghi thức trong bữa ăn đó.

Thánh lễ mà Chúa Giêsu lập làm cho bữa tiệc vượt qua thêm đầy đủ ý nghĩa : chính Chúa Giêsu là Con Chiên vượt qua, cái chết của Ngài đã giải thoát toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi.

Đáp ca : Tv 115

Tv này là lời cầu nguyện sau bữa tiệc vượt qua. Tín hữu tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn lành đã lãnh nhận.

Lời nguyện tạ ơn này có được trọn vẹn ý nghĩa trong Thánh lễ, vốn được gọi là “Lễ Tạ ơn”.

Tin Mừng : Ga 13,1-5

Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng Chúa Giêsu ăn với các môn đệ, Ngài đã rửa chân cho họ. Việc này có rất nhiều ý nghĩa :

– Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ “đến cùng”, nghĩa là yêu thương cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời trần thế của Ngài, mà cũng là yêu thương đến mức không thể nào yêu thương hơn được nữa : Vì yêu thương Ngài đã hiến mình làm lương thực cho họ ; vì yêu thương, Ngài đã chịu chết cho họ.

– Tình yêu thương phải được biểu lộ ra bằng hành động. Vì thế, Ngài không ngại quỳ xuống trước các môn đệ và rửa chân cho họ như một người đầy tớ quỳ xuống rửa chân cho chủ.

Bài đọc II : 1 Cr 11,23-26

Có nhiều lệch lạc trong cộng đoàn Côrintô trong việc cử hành bữa tiệc vượt qua kitô giáo, tức là Thánh lễ. Thánh Phaolô viết đoạn thư này để nhắc các tín hữu ý nghĩa của Thánh lễ : Thánh lễ vừa là tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu, vừa là hiện tại hóa những ơn ích của cái chết đó. Vì thế ta phải dâng Thánh lễ với tâm tình yêu mến và biết ơn Chúa, đồng thời phải yêu thương đoàn kết với nhau.

GỢI Ý GIẢNG

Những bài học từ bữa tiệc ly

Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu dạy các môn đệ mình những bài học sâu sắc bằng việc làm và lời nói của Ngài :

– Bằng việc làm : Trước khi hiến thân chịu chết trên thập giá và trước khi hiến mình làm của ăn, Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. 3 việc làm này liên kết với nhau và đều dạy bài học phục vụ : phục vụ như Người Tôi tớ mà ngày xưa ngôn sứ Isaia đã tiên báo ; phục vụ cách khiêm tốn, phục vụ với tình yêu và phục vụ đến nỗi hy sinh bản thân mình.

– Bằng lời nói : trong bầu khí thân mật của gia đình, Chúa dạy một điều răn mới. Điều răn này mới không phải ở nội dung (“chúng con hãy thương yêu nhau”) mà ở cách thức và mức độ thi hành (hãy yêu hương nhau “như Thầy yêu thương chúng con” ; “Thầy đã làm gương để chúng con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho chúng con”).

Cử hành Lễ Vượt qua với Chúa Giêsu trước hết là chấp nhận để cho Chúa Giêsu phục vụ chúng ta và yêu thương chúng ta. Có như thế chúng ta mới được thực sự rửa sạch, như lời Chúa Giêsu đã nói với Phêrô xưa.

Cử hành lễ Vượt qua với Chúa Giêsu còn là phải noi gương Ngài để trở thành người tôi tớ yêu thương và phục vụ những người khác theo cách của chính Chúa Giêsu.

Hai chiều kích của bữa tiệc ly

Thánh lễ ngày nay là hiện tại hóa bữa tiệc ly đêm thứ năm tuần thánh đầu tiên. Nó có hai ý nghĩa chính :

– Đó là một bữa ăn gia đình : mọi người cùng ngồi một bàn với nhau, cùng ăn những món chung nhau, cho nên phải đoàn kết yêu thương nhau. Đó là chiều ngang. Nhưng nếu chỉ lưu ý tới chiều ngang này thì Thánh lễ hầu như chỉ còn như một bữa giỗ.

– Thánh lễ còn loan báo việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại và hiện tại hóa những ơn sủng dồi dào do việc Chúa Giêsu chết va sống lại ban cho loài người. Đó là chiều đứng.

Khi dâng Thánh lễ chúng ta phải để ý đến cả hai chiều kích ấy và phải có đủ cả hai tâm tình ấy : vừa liên kết với Chúa vừa liên kết với anh em. Sai lầm thường mắc phải là chỉ chú ý đến chiều kích này mà quên đi chiều kích kia.

Rửa chân không phải chỉ là một việc vệ sinh

Phêrô không hiểu ý nghĩa việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, nên Chúa Giêsu nói “Việc Thầy làm, bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”.

Về sau, Phêrô đã hiểu gì ? Thưa hiểu rằng đó không phải chỉ là một việc làm vệ sinh, mà ý nghĩa còn sâu sắc hơn nhiều.

Khi tay chân mình dơ thì mình làm gì ? Chặt bỏ đi ư ? Không, không ai muốn chặt tay chặt chân mình bao giờ cho dù nó dơ bao nhiêu đi nữa. Nó dơ thì mình rửa cho sạch. Bởi vì nó là một phần của thân thể mình, một phần của sự sống mình.

Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, bời vì họ là anh em của Ngài (“Anh em như thể tay chân”). Ngài dạy chúng ta rửa chân cho nhau vì chúng ta cũng là anh em của nhau, tay chân của nhau.

Khi chúng ta chặt bỏ ai thì đó là dấu chúng ta không còn coi người đó là anh em của mình nữa. Chặt bỏ bằng kết án, khai trừ.

Còn nếu chúng ta vẫn còn coi người đó là anh em của mình thì dù người đó dơ bao nhiêu đi nữa, mình sẽ cố gắng rửa cho sạch.

Dòng nước tẩy rửa rất nhẹ nhàng, trong lành, êm ái…

TRONG THÁNH LỄ

– Trước kinh Lạy Cha : Mọi người chúng ta là anh em của nhau, Chúa Giêsu là anh cả, và Thiên Chúa là Cha. Trong tâm tình gia đình thân thiết, chúng ta hãy dâng lên Cha chúng ta lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy.

– Trước lúc rước lễ : Thánh lễ hôm nay diễn lại đúng nghĩa nhất Thánh lễ đầu tiên của Chúa Giêsu trong đêm Thứ Năm tuần Thánh đầu tiên. Chúng ta hãy rước lễ sốt sắng như các tông đồ ngày xưa. [Mục Lục]

3. BỮA TIỆC HUYNH ĐỆ THÁNH THIÊNG Lm. Jude Siciliano, OP

Tôi không nhớ mình đã được uống rượu từ khi nào. Hồi ấy tôi còn quá non dại. Nhưng tôi có thể xác định rõ ràng mình đã uống ra sao. Bởi lẽ sau này, khi đã lớn, tôi có thể quan sát một ai đó trong gia đình tập cho con cháu nhỏ, lẫm chẫm biết đi, uống rượu lần đầu tiên.

Ông hay bà ta chấm một miếng bánh mì vào ly rượu của mình, cho chúng mút dần rồi sau đó cho ăn cả miếng. Ðiều đó thường xảy ra vào những dịp lễ lớn hoặc cơ hội vui vẻ đặc biệt của gia đình, do quá cưng chiều con cháu. Trường hợp của tôi cũng vậy thôi. Khi đến mươi, mười hai tuổi, trẻ con chúng tôi được uống một muỗng canh rượu mạnh “whisky” đổ vào chén nhỏ bằng hạt mít để sưởi ấm về ban đêm. Lúc đến độ tuổi “teen” mỗi bữa chúng tôi được rót cho một ly rượu đầy. Tôi nghĩ có lẽ trẻ con chúng tôi được đưa dần hội nhập vào thế giới người lớn tuỳ vào lượng rượu chúng tôi được phép uống. Ðiều đó cũng là dấu hiệu chúng tôi đã bước vào tuổi tập ăn, tập nghĩ và dĩ nhiên tập làm nữa. Ly rượu đầy nói với chúng tôi rằng chúng tôi phải chịu trách nhiệm về hành vi hạnh kiểm của mình trong gia đình, hàng xóm, láng giềng. Không thể sống tự do vô trách nhiệm mãi được.

Lúc đến độ tuổi “teen” mỗi bữa chúng tôi được rót cho một ly rượu đầy. Tôi nghĩ có lẽ trẻ con chúng tôi được đưa dần hội nhập vào thế giới người lớn tuỳ vào lượng rượu chúng tôi được phép uống. Ðiều đó cũng là dấu hiệu chúng tôi đã bước vào tuổi tập ăn, tập nghĩ và dĩ nhiên tập làm nữa. Ly rượu đầy nói với chúng tôi rằng chúng tôi phải chịu trách nhiệm về hành vi hạnh kiểm của mình trong gia đình, hàng xóm, láng giềng. Không thể sống tự do vô trách nhiệm mãi được.

Bữa ăn Thánh Thể hôm nay cũng vậy, nguyên thuỷ nó là lễ bánh không men của Cựu ước. Tôi thiết nghĩ chúng ta cũng là những đứa trẻ, quây quần quanh bàn ăn thiêng liêng, cố gắng trở nên các tâm hồn trưởng thành, tức là phần tử đúng nghĩa của một gia đình mới, gia đình Chúa Giêsu, anh chị em thực sự với nhau trong tình yêu bác ái. Chúng ta đã từng ăn bánh, uống rượu thiêng từ bao nhiêu năm qua, đã từng cố gắng nên hình nên dạng con cái Chúa chung quanh bàn tiệc này. Tuy nhiên con đường hoàn thiện còn dài và chúng ta hy vọng từng chút, từng chút một, rượu bánh thiêng sẽ biến đổi mình ngày một nên tốt lành hơn. Hy vọng đó đúng hướng, rất đáng trân trọng, khích lệ. Xin hãy can đảm gạt bỏ khỏi nhân cách những chi không xứng hợp với phẩm chất một thành viên trong đại gia đình thánh thiện. Ðúng thật, bữa ăn hôm nay ám chỉ lời hứa sẽ được hoàn thành. Bởi vì ngày nào đó, con cái Thiên Chúa sẽ cùng nhau dự tiệc với Ðức Ki-tô trong nền viên mãn của triều đại Ngài. Hiện nay, Nước Ngài đang hiện diện, nhưng chưa đạt tới mức tròn đầy. Bổn phận chúng ta phải thúc đẩy cho công việc này hoàn thành nhanh chóng bằng cách năng lãnh nhận Bí tích tình yêu.

Trước khi dự tiệc Bánh rượu, chúng ta nghe đọc Tin mừng và Chúa Giêsu nói với mỗi người hiện diện: đây là Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho muôn người. Thực ra, Chúa lập giao ước này hai lần, một lần trên bánh vào lúc khởi đầu bữa ăn, và một lần trên rượu vào cuối bữa ăn (1Cor 11, 25). Ðó cũng là nghi lễ phụng vụ Thánh Thể của các giáo đoàn tiên khởi, nghi thức còn nhiều chi tiết cảm động, nhưng các thánh sử chỉ ghi lại các điều căn bản, bắt đầu từ thánh Phaolô. Ngày nay trong kinh nguyện Thánh Thể, các linh mục đọc: “Này là chén Máu Ta, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”. Vậy khi phán những lời này Chúa Giêsu muốn nhắm tới ai? Nhiều người hay tất cả? Ðối với các môn đệ người Do thái ngồi quanh bàn Tiệc ly thì có lẽ “nhiều người” ở đây có nghĩa là các dân ngoại, không được phép hiện diện tại bàn ăn này. Tức là, Chúa muốn nói đến những người mà các nhà lãnh đạo đền thờ gạt bỏ ra ngoài kẻo làm nhơ bẩn sự thanh khiết của Ðạo. Nghi lễ tiệc ly chỉ dành cho người Do thái chính hiệu mà thôi. Như thế, lúc này Chúa muốn bao gồm luôn cả các thứ người khác nữa.

Phần chúng ta, khi tham dự Thánh lễ, “nhiều người” hay “những người khác” là ai? Nghĩa là những kẻ không được dự tiệc với chúng ta? Trong các giáo xứ quy củ “nhiều người” có thể là những gia đình thiếu thốn về tiền bạc, nói trắng ra, đó là những kẻ nghèo khó, không đủ cơm ăn áo mặc, không có lấy một bộ đồ lành lặn để đi dự Thánh lễ, những người không cùng giai cấp, địa vị với chúng ta, các khách ngoại kiều đến trú ngụ, không cùng ngôn ngữ, tập quán, giáo dục như chúng ta. Ở trong xóm đạo da trắng nghèo “nhiều người” có thể là những kẻ di dân mới đến đe doạ công ăn việc làm của mình. Ở các cộng đồng da đen, “người khác” có thể là những dân châu Mỹ La tinh. Ðối với dân da vàng Á Châu, “họ” không ai khác là những người Mỹ gốc Mễ bên cạnh… Cứ thế danh sách những kẻ bị loại trừ kéo dài dễ thường đến vô tận.

Cho nên Chúa Giêsu không thể hiện diện để chúc lành cho các cộng đồng giáo xứ, khi còn mãi não trạng như vậy. Nếu như chúng ta thực sự lắng nghe lời Ngài trong các bài đọc của Thánh lễ. Thì bữa ăn thiêng liêng kế tiếp phải trở nên thách đố để bao gồm luôn kẻ “ngoài lề”, đón chào họ vào các buổi phụng vụ, vào sở làm và xã hội của mình. Trên thánh giá Chúa Giêsu giang rộng hai tay, đổ hết máu mình, để ôm ấp, tẩy sạch mọi người, thì không lẽ gì chúng ta loại trừ ai? Ðúng lý, khi nâng chén rượu lên môi uống, chúng ta phải nhìn qua miệng chén, để nhìn thấy mọi người đang hiện diện với mình, gồm cả các linh hồn chúng ta đang muốn tránh né. Lúc này không phải là lúc hiềm tỵ nữa mà là Agape hoàn hảo. Chúng ta còn phải tưởng nghĩ đến cả những linh hồn khốn khổ vì tội lỗi, đang cầu khẩn xin ơn Thiên Chúa tha thứ và lớn lên về đàng thiêng liêng. Cánh tay giang rộng của Chúa Giêsu cũng nhắc nhớ chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn đã bỏ đạo, không bao giờ bước vào thánh đường nữa. Ngài đã đổ máu ra cho những kẻ lành, thì Ngài cũng dâng mình Ngài cho những kẻ dữ nữa. Chúng ta chớ để xót một ai trong khi tham dự bàn tiệc thánh. Ðó là điều thánh Marcô nhắc nhở trong Tin mừng hôm nay. Chúng ta phải có cái nhìn của Chúa Giêsu. Ngày nào đó Ngài sẽ trở lại cùng chúng ta uống: “sản phẩm mới của cây nho này trong Nước Thiên Chúa”. Chúa Giêsu, thực tế, đã trông thấy trước những ai cùng tham dự bàn tiệc Thiên Quốc với Ngài. Chúng ta phải tiến triển mỗi khi ăn bánh uống rượu thánh để có được cái nhìn của Ngài.

Nói như thế không có nghĩa mọi sự sẽ đồng nhất trong bữa tiệc thánh thể. Nếu đúng phải như vậy, thì buồn chán biết bao! Khi tham dự thánh lễ, chúng ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa và đồng loại. Chúng ta rước Mình Máu Chúa để lớn lên trong tình yêu. Mình Máu Chúa lôi kéo chúng ta đến với Chúa Phục Sinh và anh em ruột thịt. Nhưng giáo xứ vẫn là cộng đồng nhiều thành phần. Nhóm này ưa thích bầu khí yên tĩnh, trầm lặng và nhiều kính trọng. Nhóm khác thích ồn ào, hoạt động xã hội, hoà đồng. Nhóm thích xây nhà thờ, nhóm khác lại thích trường học, nhà thương. Người thì bảo toà giảng không phải là nơi tuyên truyền chính trị, phe nhóm. Kẻ khác nói phải tích cực chống xì ke, ma tuý, tham nhũng, hối lộ. Người đi lễ Thứ bảy cho được ngắn gọn, tránh bài giảng dài. Người khác lễ chính tiệc 8 giờ, nghiêm trang sốt sắng hơn, ca đoàn hát hay… Như vậy chúng ta đến nhà thờ với nhiều tâm trạng khác nhau, nhiều khuynh hướng xã hội, chính trị, văn hoá, thần học, phụng vụ khác nhau. Không thể đồng nhất được. Ðòi hỏi đồng nhất là vô lý. Chúa biết chúng ta cần ơn trợ giúp để hoà hợp với nhau. Nhưng dù thế nào đi nữa thì khi tham dự bàn tiệc Mình Máu Thánh, chúng ta phải nên một với Chúa và với anh em. Bởi lẽ như thơ Do thái nói: “Chúng ta chỉ có một Ðấng trung gian của giao ước mới giữa Thiên Chúa và loài người là Ðức Giêsu Kitô” (13,24). Ngài đã chết để giao hoà mọi mối bất đồng.

Khi ăn bánh và uống chén thánh, chúng ta hy vọng sẽ vượt qua hết mọi khó khăn, chia rẽ, để kết hiệp nên một thân thể mầu nhiệm Chúa. Thực sự thân thể này đã hiện hữu và đang trở nên hoàn thiện. Mọi cố gắng hằng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm của cộng đoàn phải nhằm đến mục tiêu đó. Chúng ta hy vọng sẽ lớn lên để trở nên các tín hữu trưởng thành trong Nước Thiên Chúa. Không tự kiêu, tự đắc, tự mãn chúng ta tiến lên bàn tiệc Mình Máu Chúa, nhận biết mình còn bất toàn, còn nhiều thiếu sót và cần đến ơn Chúa thay đổi. Chúng ta cũng muốn đổi thay cuộc đời mình và bữa ăn thiêng bảo đảm điều ấy. Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay khai mở cho nhân loại một viễn tượng hạnh phúc vĩ đại là Nước Thiên Chúa. Nó được thể hiện trong Bí tích Thánh thể, một thực tại, một triều đại đang đến, nhưng chưa hoàn thành đầy đủ. Xin mời mọi người đến tham dự, bởi lẽ mọi người đều đói khát. Một Ngày cùng nhau ăn bánh, uống chén trong một triều đại hoàn toàn mới, hoàn toàn viên mãn.

Hôm nay khi trao Mình Thánh Chúa cho các tín hữu, linh mục thừa tác đọc: “Mình Thánh Chúa Kitô, Máu Thánh Chúa Kitô”. Phần tôi, tôi có thói quen nhìn thẳng vào người lãnh nhận và nhủ thầm trong lòng rằng chính họ là máu thịt Ðức Ki-tô, họ đến nhận sức sống của mình để ngày càng được trở nên, đồng hoá, biến đổi theo hình dạng Ðức Ki-tô Giêsu. Như thế cũng có nghĩa các linh mục nói với họ: “Quí vị là thân thể Ðức Ki-tô, lương thực này giúp quí vị dần dà trở nên một Ðức Ki-tô mới trong thế giới”. Ngày đại lễ hôm nay cũng có những cuộc rước kiệu lớn, có khi khắp chung quanh làng xóm. Nhiều giáo xứ trên đất nước Hoa Kỳ còn giữ được thói quen tốt lành này. Nhưng cũng có nhiều giáo xứ đã bỏ. Dầu có hay không, thì ở cuối thánh lễ, mỗi người tín hữu cũng được sai đi vào thế giới để trở nên Mình và Máu Ðức Ki-tô. Như vậy, hôm nay chúng ta cử hành lễ trọng kính Mình thánh Máu thánh Chúa, là cử hành chính thực tại của mình trong thế gian. Amen.

Danh ngôn Trung Hoa: Muốn vui một ngày thì uống rượu. Một tuần: Nuôi chim. Một tháng: Cưới vợ. Trọn đời: Đi tu.

Vậy thì rước lễ sẽ được vui muôn thuở. [Mục Lục]

4. LINH MỤC SỐNG CHO NGƯỜI NGHÈO Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta nói rằng: chim Yến là loài chim không thích cạnh tranh với muôn loài, nên đã chọn nơi thâm sơn cùng cốc, hải đảo xa xôi để xây tổ ấm. Chim yến luôn bay theo hướng mặt trời và không hề đậu lại để nghỉ ngơi. Chim Yến ăn những loài côn trùng sống và đang bay trong không gian. Chim Yến cũng không bao giờ uống nước sông suối ao hồ mà uống hơi sương của sáng sớm và chiều tà. Điều đặc biệt của chim Yến là chúng làm tổ bằng cách tiết nước bọt đặc biệt của mình- đôi khi trộn với cả máu, tạo thành sợi, kết làm tổ để chuẩn bị sẵn sàng cho những Yến con sắp ra đời. Với cách làm tổ bằng chất liệu từ ruột gan rút ra, phải có một tình yêu con mãnh liệt lắm, Yến mới không ngại hy sinh cho con sự sống.

Vâng, chim Yến đã rút ruột cho con. Chim Yến dùng mạng sống mình để bảo vệ, che chở và nuôi sống đàn con. Đây quả thực là một mẫu mực cho tình yêu. Một tình yêu không nói bằng lời nhưng diễn tả bằng hành động. Một tình yêu không so đo tính toán, không toan tính thiệt hơn nhưng chỉ biết yêu là yêu cho đến cùng. Đây quả thực là một tình yêu cao quý mà trong muôn loài mới có một loài dám chết cho người mình yêu, vì “không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu dám thí mạng mình vì người mình yêu”. Đây quả thực là một tình yêu cao thượng cho đi mà không lấy lại, trao ban mà không bao giờ mong đền đáp.

Hôm nay, thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta lại được chiêm ngắm một tình yêu cao sâu như thế nhưng được thể hiện nơi con người là Đức Giê-su thành Nagiaret. Một tình yêu sáng tạo đến mức độ tận hiến chính thân mình làm của ăn của uống cho người mình yêu. Một tình yêu rút ruột để làm nên bí tích nhiệm màu là Thánh Thể yêu thương. Một tình yêu không nói bằng lời mà bằng chính hành vi trao ban máu thịt mình nên của ăn nuôi dưỡng đàn chiên.

Chúa Giê-su khi lập bí tích Thánh Thể, Ngài đã làm cử chỉ thật cảm động khi quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Điều này như muốn nói Thánh Thể là đỉnh cao của tận hiến hy sinh, của phục vụ quên mình. Việc rửa chân là nhịp cầu không thể thiếu để dẫn tới việc cử hành Thánh Thể. Trước khi cử hành Thánh Thể cần phải thể hiện tinh thân phục vụ hy sinh qua hành vi khiêm tốn như một người tôi tớ phục vụ chủ mình. Vì Thánh Thể là tình yêu tự hiến quên mình cũng cần được thể hiện cụ thể rõ nét trong đời sống đời thường khi hết mình phục vụ tha nhân. Cũng vậy, việc sống đạo, giữ đạo không chỉ dừng lại ở nhà thờ quanh bàn tiệc thánh mà còn phải thể hiện qua việc dấn thân xây dựng xã hội công bằng, bác ái, hiệp nhất, yêu thương.

Khi ĐHY Jorge Mario Bergoglio được bầu chọn làm giáo hoàng, Ngài đã lấy tên gọi là Phanxicô . Chúng ta biết thánh Phanxicô Assisi của thế kỷ 13 là một con người sống cho người nghèo và dấn thân vì người nghèo. Thánh nhân đã muốn “xây dựng lại Giáo Hội Công Giáo với những viên đã sống động là những người nghèo”. Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô cũng đã từng sống như vậy và với những gì Ngài đã thể hiện, có lẽ Ngài sẽ tiếp tục dấn thân cho người nghèo trong cương vị chủ chăn hoàn vũ. Ngài cũng đã từng “sống trong một căn nhà nhỏ, chứ không phải tại nơi cư trú nguy nga của giám mục.

Dù là Hồng Y, ngài thường sử dụng các phương tiện giao thông công cộng, và tự mình nấu ăn cho mình.”

Hôm nay, cũng là ngày cầu cho các linh mục, chúng ta cầu xin Chúa cho Giáo hội có nhiều linh mục như lòng Chúa mong ước. Cầu xin Chúa cho có nhiều linh mục biết đến để phục vụ chứ không để người khác phục vụ. Cầu xin Chúa cho có nhiều linh mục sống cho người nghèo và vì người nghèo chứ không sống trong nhung lụa mà gạt bỏ người nghèo. Cầu xin Chúa cho có nhiều linh mục biết cử hành việc phục vụ Chúa nơi các đền thờ tâm hồn con người chứ không dừng lại nơi bàn thờ hiến lễ trong nhà thờ. Cầu xin cho có nhiều linh mục biết cúi mình phục vụ chứ không cao ngạo kiêu căng. Chớ gì các linh mục luôn là hiện thân của tình mục tử sẵn sàng hiến thân vì đàn chiên.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã cúi mình phục vụ xin giúp chúng con biết sống khiêm tốn để phục vụ nhau. Amen [Mục Lục]

5. NGƯỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG HỌ Giuse Đỗ Huy Hoàng, OP

Ngài đã yêu thương họ và Ngài yêu thương họ đến cùng

Yêu và được yêu là khát vọng tất yếu của mỗi người. Và con người luôn mải miết kiếm tìm cho mình câu trả lời về tình yêu : tình yêu là gì? Nhưng giờ đây con người không phải khắc khoải đi tìm nữa, bởi nơi Đức Giêsu là câu trả lời thoả đáng về tình yêu. Và Ngôi lời đến thế gian để loan báo cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa với con người và Thánh Gioan đã khẳng định Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu là mối dây liên kết con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau, qua đó giúp cho mối liên kết được bền chặt trong yêu thương.

Giờ đây, Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến. Giờ Người hiến tế vì con người – giờ Người phải trở về với Chúa Cha. Đáng lẽ với một ý thức như thế Ngài phải tự hào, thế nhưng Người lại đi rửa chân cho các môn đệ. Đúng vào giờ khắc quan trọng, Chúa đã có tâm tình khiêm hạ tột cùng. Bởi Ngài yêu thương những kẻ thuộc về mình, những con người sống với Người trong suốt quãng thời gian công khai rao giảng của Người, những người đã, đang và sẽ thi hành tiếp tục sứ vụ của Ngài nơi trần thế. Vì yêu, nên Người đã cúi xuống rửa chân cho họ, với người Do thái một việc làm chỉ dành cho người nô lệ đối, thế nhưng Chúa đã làm và ngài nói: Ta là thầy là Chúa còn rửa chân cho các con, vì vậy các con phải rửa chân cho nhau(x Ga 13,14-16). Người trối lại cho các môn đệ giới răn mới để các ông trở thành cánh tay nối dài của tình yêu Thiên Chúa trong thế giới hôm nay. Thế chưa đủ, Người còn muốn ở lại và đồng hành với họ nên Người đã trao cho chính mình Người qua việc thiết lập Bí Tích tình yêu và như vậy Ngài mãi ở lại với họ – với con Người.

Lạy Chúa Giêsu, Người dạy chúng con biết chỉ có một điều cao trọng, đó là giới luật yêu thương, vì yêu thương Người đã không ngần ngại cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, cũng như ngài không ngần ngại ngụp lặn trong dòng sông Jodan để chụi phép thanh tẩy và mang vào thân tội lỗi của nhân loại. Thế nhưng trong một thế giới đề cao vật chất, chúng con đã đánh mất yêu thương với mọi người, chúng con đề cao danh vọng, muốn được tôn vinh mà quên đi bài học phục vụ. Chúng con ham muốn được nổi bật, không chịu nhận địa vị yếu kém.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con rằng: cứ dấu này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ thầy là anh em hãy yêu thương nhau. Nhưng Chúa ơi! Chúng con đã đón nhận yêu thương nhưng lại gieo hận thù, đón nhận điều thiện gieo điều ác, đón nhận điều lành gieo điều xấu. Đó là những điều Ngài không muốn nơi chúng con, Ngài chỉ muốn chúng con yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng con và yêu mãi cho đến cùng. Và rồi có đôi lần con tự hỏi : con đã yêu thương mọi người ? chúng con có dành cho nhau tình cảm, của cải, vật chất, công việc, thời gian… nhưng chúng con không dám hy sinh mạng sống vì người mình yêu, chúng con lại ngập ngừng, thối chí khi muốn nói lời yêu thương với người thân của mình, nhưng Người thì ngược lại. Xin thêm lòng mến cho chúng con để chúng con yêu nhau như Chúa yêu.

Lạy Chúa, nơi Ngài có tình yêu chân thật, tình yêu không vị kỉ, một tình yêu mang đầy thấu cảm. Ngài yêu thương và sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm chúng con trót phạm, khi con sám hối ăn năm. Vì Ngài biết và yêu cả thân phận yếu đuối và bất toàn của chúng con. Xin dạy chúng con bài học yêu thương tha thứ thay cho những gì là xét đoán và lên án anh chị em mình.

Lạy Chúa, giờ đây, con đang kiểm điểm mình trong giờ cầu nguyện này, để xem con đã biết cảm thông , thân thiện với mọi người chưa? Con có cố gắng để không bao giờ thiếu Đức mến trong tư tưởng, con đã biết làm hoà hay đền trả ai khi con đối xử tệ với họ. Con có dành cho họ yêu thương khi tiếp xúc không, con đã biết giúp đỡ mọi người chưa.

Cuộc thương khó của Chúa đã gần kề, con đang suy gẫm về tình yêu của Ngài dành cho con : ngài đã yêu thương và ngài yêu thương đến cùng. Xin cho chúng con biết thể hiện tình yêu đó với mọi người như Chúa yêu, và xin người thắp lên trong con ngọn lửa nồng nàn của tình mến thiết tha, để chúng con biết vượt qua những rào cảm để yêu thương và đón nhận nhau một cách vẹn toàn. [Mục Lục]

6. HÃY CANH THỨC VỚI THẦY – Lm. Jos. Vũ An Tôn, OP

Chiều hôm nay, chúng ta vừa cử hành nghi thức tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu với các tông đồ. Trong bữa ăn đó Chúa đã lập Bí tích Thánh Thể để ở lại luôn mãi với chúng ta, đồng thời Người cũng thiết lập chức Linh Mục, khi truyền cho các tông đồ: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19), nhờ đó hy tế Vượt Qua của Người được tái hiện và Người luôn hiện diện giữa chúng ta cho đến tận thế, để tiếp tục cứu độ thế giới.

Cũng trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu còn quì xuống rửa chân cho các tông đồ, để lại cho chúng ta mẫu gương sống yêu thương phục vụ, nếu muốn trở nên môn đệ đích thực của Người.

Giờ đây, Hội Thánh tha thiết mời gọi chúng ta hãy ở lại canh thức cầu nguyện với Chúa Giêsu một thời gian, nhớ lại lời Chúa đã nói với các tông đồ: Hãy canh thức với Thầy, khi Chúa vào vườn Cây Dầu để cầu nguyện với Chúa Cha và trải qua cơn hấp hối hãi hùng, đến nỗi mồ hôi như những máu nhỏ xuống đất. (Lc 22,44)

Đối diện với những cực hình sẽ chịu, những nhục nhã phải hứng lấy và trước cái chết kinh khiếp sắp xảy đến, Chúa Giêsu buồn rầu, xao xuyến kêu cầu cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này” (Mt 26,39a). Trong cuộc sống của chúng ta, khi hy sinh cứu giúp người nào, nếu thấy trước người đó được cứu sống và được hạnh phúc thì may ra còn dễ dàng hy sinh, nhưng nếu biết sự hy sinh mà bị coi thường, bị phản bội thì lòng người hy sinh đau khổ biết là chừng nào. Vậy mà trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã nhìn thấy tất cả những phản bội đó: một trong các bạn hữu sẽ nộp Người cho thù địch, người thì chối Thầy, kẻ khác thì bỏ chạy, dân chúng đã từng được nghe giảng dạy cũng như chứng kiến biết bao phép lạ thì cứng lòng,… Người đã phải chiến đấu quyết liệt cho sự hạnh phúc đời đời của chúng ta trong cô đơn lẻ loi: Chúa Cha hoàn toàn im lặng, các môn đệ thì ngủ say. Dầu vậy, Người vẫn một lòng trung tín với tình yêu dành cho Chúa Cha và cho loài người mà Chúa Cha muốn cứu độ: “Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39b).

Đặt mình trước Thánh Thể, chúng ta hãy tự hỏi mình đã đối xử với Chúa như thế nào ? Sự thờ ơ lạnh nhạt của chúng ta với bí tích Thánh Thể không phải là cứng lòng hay sao ? Mỗi lần chúng ta phạm đi phạm lại một tội, há không là phản bội Chúa sao ? Những khi chúng ta dửng dưng trước nỗi đau của anh chị em mình, đó chẳng phải là chối Chúa hay sao ?

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Chúng con thờ lạy Chúa đang hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Hôm nay chúng con đến đây để được tỉnh thức bên Chúa, để được loại bỏ những cám dỗ ru ngủ, hào nhoáng quyến rũ và khổ đau của thế giới này. Xin Chúa hãy đánh thức chúng con dậy và ra khỏi những nụ hôn giả dối đầy ngọt ngào của danh vọng, tiền tài và hưởng thụ; thoát ra khỏi những cơn say của lạc thú, đam mê, đua chen bôn ba ở đời. Chính tại đây cũng như xưa kia nơi vườn Cây Dầu, Chúa cũng đang nói với chúng con: “Anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?” (Mt 26,40) Chúng con nào thấu hiểu được tình yêu của Chúa dành cho chúng con. Chúa càng chung thuỷ với chúng con bao nhiêu, thì chúng con lại cảm thấy chính mình bội bạc với Chúa bấy nhiêu. Chúa càng yêu chúng con bao nhiêu, thì chúng con lại cảm thấy mình hờ hững với Chúa bấy nhiêu.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đã để Chúa đợi chờ quá lâu, đã để Chúa cô đơn quá nhiều! Chúng con chỉ đến với Chúa khi cần mà thôi, và khi Chúa đã đáp ứng nhu cầu của chúng con rồi thì chúng con lại quên mất Chúa. Chúng con xin lỗi Chúa thật nhiều. Xin hãy đốt lên trong trái tim chúng con ngọn lửa yêu mến Chúa, để chúng con bớt nguội lạnh và vô ơn đối với Chúa. Xin hãy nhìn chúng con bằng ánh mắt thấu suốt mà Chúa đã nhìn tông đồ Phêrô trong dinh thượng tế, để chúng con cũng nhận ra những yếu đuối của bản thân và biết ăn năn sám hối trở về cùng Chúa.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Chúa luôn sẵn sàng chúc phúc cho chúng con bằng ân sủng và tình yêu của Chúa. Vâng, Chúa hằng nghĩ tới chúng con, khao khát đợi chờ chúng con trong Bí tích Cực thánh này. Chúa chính là đường, là sự thật và là sự sống của cuộc đời chúng con. Chúa cũng biết rõ chúng con: “tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41), Xin giúp chúng con luôn biết tin tưởng phó thác cuộc đời mình nơi bàn tay quan phòng của Thiên Chúa bằng cách năng canh thức và cầu nguyện, khi gặp thử thách cũng như trong mọi giây phút của cuộc đời. Amen. [Mục Lục]

7. YÊU CHO ĐẾN CÙNG- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC

Thưa anh chị em,

Một chiều năm xưa cách đây hơn 2.000 năm, tại nước Do thái, trong một ngôi nhà ấm cúng, đã diễn ra bữa tiệc ly cuối cùng, Chúa Giêsu như muốn bộc lộ hết tình yêu ấp ủ nơi Thánh Tâm Ngài cho các môn đệ qua ba dấu ấn tình yêu đó là: Ban giới răn mới, lập Bí tích Thánh Thể và thiết lập chức linh mục.

Tất cả những nghĩa cử đó được qui tóm trong một câu mà thánh Gioan đã ghi lại trong Tin mừng chúng ta vừa nghe đó là: Ngài yêu thương họ đến cùng.

Thế nào là yêu đến cùng?

Yêu đến cùng là yêu không tính theo thời gian, cũng không phải là yêu cho đến chết, nhưng yêu cho đến cùng có nghĩa là: khả năng Thiên Chúa có bao nhiêu, thì Ngài yêu thương hết bấy nhiêu.

Yêu cho đến cùng là hạ mình

Chúa Giêsu là Đức Chúa Trời quyền năng vô cùng, làm được mọi sự, nhưng vì yêu thương nhân loại, Ngài đã hạ mình xuống sống với chúng ta là loài thụ tạo thấp hèn.

Ngài là Thiên Chúa giàu có vô cùng, nhưng vì yêu thương chúng ta mà Ngài đã hạ mình xuống sống nghèo khó. Sinh vô gia cư tử vô địa táng.

Ngài là Đấng thánh thiện vô cùng, nhưng vì yêu thương nhân loại nên đã hạ mình xuống sống với chúng ta là những kẻ tội lỗi. Ngài nói: “Thầy không gọi các con là tôi tớ nhưng là bạn hữu”. Thế nhưng, Chúa còn hạ mình hơn là bạn hữu nữa, bằng chứng là khi Ngài hạ mình rửa chân cho các môn đệ.

Thánh Gioan tả lại trong bối cảnh tiệc ly: Đang khi ăn, Chúa Giêsu chỗi dậy rời bàn tiệc, cởi áo choàng ra, nghĩa là Ngài cởi bỏ địa vị là Thiên Chúa. Lấy khăn thắt lưng là mặc lấy thân phận đầy tớ.

Tiếp đến, Ngài lấy nước đổ vào chậu, quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Ngài rửa đi những vết bẩn, những tội lỗi nơi các ông.

Ngài tẩy rửa những bàn chân còn vương lấm bụi trần là những lầm lỗi, những tính hư tật xấu, để từ nay các ông sẽ đi vào đường ngay nẻo chính.

Ngài quỳ gối xuống, để nâng các ông lên, bởi vì Chúa nói với Phêrô “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ chẳng được dự phần với Thầy”.

Yêu cho đến cùng là hiến mình

Không có tình yêu nào cao cả cho bằng kẻ hiến mạng sống mình cho người mình yêu.

Nếu anh chị em đến Chùa, anh chị em nhìn thấy ai? Thế thì khi chúng ta bước vào nhà thờ, chúng ta nhìn thấy ai?

Tuần thánh, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm cuộc thương khó Chúa bằng việc nhìn lên thập giá Chúa.

Nhìn lên thập giá Chúa để cho biết ác tính tội lỗi của con người đã làm cho Chúa phải chết đau thương như một tên tử tội. Để rồi đừng cố tình xúc phạm đến Chúa nữa.

Nhìn lên thập giá Chúa để cho chúng ta thấy rằng: cho dù tội lỗi con người có ngập tràn đến đâu đi nữa thì tình thương và lòng Chúa thương xót còn cao hơn ngàn tội lỗi.

Yêu cho đến cùng là huỷ mình

Anh chị em biết người Mỹ họ quí chó lắm. Bằng chứng là có bệnh viện dành cho chó; có nghĩa trang để chôn chó… người ta xếp loại: trẻ con hạng thứ nhất; phụ nữ hạng thứ hai; con chó hạng thứ 3; đàn ông hạng thứ 4. Giã như có ai yêu quí con chó đến độ ăn nằm với nó, chơi với nó…. Thử hỏi người khác nhìn vào có cho người đó không bình thường?

Điều mà con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm vì yêu thương chúng ta. Một Thiên Chúa quyền năng vô cùng mà hạ mình xuống sống với con người thì hạ mình lắm rồi.

Một Thiên Chúa minh chứng tình yêu đã hiến mình trên cây thánh giá, như một tội nhân, vẫn còn là con người, nhưng bây giờ Thiên Chúa ấy lại huỷ mình ra không, ngự trong tấm bánh cho chúng ta ăn vào, thì không thể nào hiểu thấu được.

Khi suy niệm về Bí tích Thánh Thể, Thánh Augustinô nói rằng: “Mặc dầu Đức Chúa Trời quyền phép vô cùng, làm được mọi sự, cũng không làm gì hơn nữa cho con người. Đức Chúa Trời khôn ngoan vô cùng, thông biết mọi sự, cũng không nghĩ ra được gì hơn nữa cho con người. Và Đức Chúa Trời giàu có vô cùng, cũng không biết lấy gì hơn nữa cho con người, bằng cách Ngài lập nên Bí tích Thánh thể, để ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”.

Thật vậy, vì yêu thương nhân loại, nên Chúa ban chính Mình Máu thánh; vì yêu thương nhân loại, nên Chúa lập chức linh mục. Vì thế, ở đâu có linh mục, là có Thánh Thể Chúa, ở đâu có Thánh Thể Chúa, là dấu có linh mục.

Anh chị em thân mến,

Hôm nay, chúng ta còn tưởng niệm việc Chúa ban giới răn mới, qua hành vi hạ mình rửa chân cho các môn đệ; thiết lập Bí Tích Thánh Thể; thiết lập chức linh mục, tất cả nói lên tình yêu Chúa yêu thương chúng ta đến cùng.

Xin Chúa cho chúng ta biết cảm nghiệm sâu hơn tình Chúa yêu thương chúng ta và cố găng thực thi giới răn mới trong mọi hoàn cảnh, để chúng ta sớm trở nên những môn đệ đích thực, như lời Chúa dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Amen. [Mục Lục]

8. ĐỈNH CAO CỦA MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ LÀ TÌNH YÊU –Lm Jos. Vinc Ngọc Biển

Trong cuộc sống, nơi các gia đình, nhất là văn phong của Việt Nam, chúng ta rất coi trọng bữa ăn. Nơi bữa ăn, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại, thường hay được giải quyết. Có những bữa ăn để chia tay; có những bữa ăn để lên đường. Chia tay hoặc lên đường thường hay để lại nhiều kỷ niệm nơi người đi và kẻ ở.

Hôm nay, Đức Giêsu quy tụ các Tông đồ là những người thân tín với Ngài trong suốt chặng đường rong ruổi loan báo Tin Mừng. Ngài quy tụ họ, để trao lại cho họ một tặng phẩm thần linh là Bí tích Thánh Thể và truyền cho các ông hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Ngài. Qua đó, như một sự hiện hữu sau khi chết, để khi còn sống, Đức Giêsu ở cùng với các ông thế nào, thì ít ngày nữa thôi, Ngài cũng hiện diện và ở lại với các ông cách vô hình nhưng trọn vẹn nơi Bí tích cao trọng là chính Thánh Thể Ngài. Mặt khác, qua bữa tiệc này, phần cuối cùng của bữa tiệc, Đức Giêsu hành động và trăng trối những lời tâm huyết để xây dựng cộng đoàn Giáo Hội đó là: “luật yêu thương”.

Một tặng phẩm cao quý được trao tặng

Nếu trong cuộc sống, hai người yêu nhau, họ thường có những lời lẽ chân tình, ấm áp để thể hiện tình yêu của mình cho người mình yêu. Khi đi xa, người ta hay trao tặng cho nhau những kỷ vật trân quý, để dù xa mặt chứ lòng thì không. Qua món quà đó, với người đón nhận thì tặng vật đó không chỉ đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng nó còn là sự hiện hữu của chính người tặng quà.

Cũng vậy, khi Đức Giêsu biết “giờ” của mình sắp trở về với Thiên Chúa Cha, nên Ngài đã yêu thương họ đến cùng khi trao ban chính thân mình làm của nuôi sống môn sinh.

Chiều hôm nay, chúng ta kỷ niệm việc Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể. Đây là Bí tích cao trọng nhất trong 7 Bí tích. Cao trọng bởi vì qua Bí tích này, Đức Giêsu hiến dâng thân mình làm của ăn của uống để nuôi sống nhân loại và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài yêu thương và yêu hết mình. Yêu đến nỗi bằng lòng chịu chết để miễn sao người mình yêu được hạnh phúc.

Thật vậy, Ngài đã trao ban chính Thân Mình làm bảo vật, để mỗi khi các Tông đồ cũng như những người tin, cử hành và tưởng nhớ, thì Ngài hiện diện cách bản thể hữu hình nơi mầu nhiệm cử hành. Khi đó, Đức Giêsu trở nên đồng hình đồng dạng với người đón nhận, để từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Ôi, còn gì cao quý và hạnh phúc cho bằng ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa với Đấng là Thiên Chúa nhưng lại chia sẻ thân phận con người với chúng ta!

Lời cầu nguyện của Đức Giêsu với Chúa Cha làm toát lên đặc tính kỳ diệu này:“ … như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21). Giáo Hội tiếp diễn ý nghĩa hiệp thông với mọi thành phần khi đã liên kết với Đức Giêsu, qua Kinh Tiền Tụng Thánh Thể: “Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần”.

Qua Bí tích này, mỗi người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa thông qua bản thể Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, đồng thời cũng được liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một thân thể.

Một dấu tích sống động được tiếp diễn

Sau khi Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể, ngài đã thiết lập Bí tích Truyền Chức liền sau đó như một sự liên hệ, liền mạch và mật thiết với nhau. Đúng thế, không thể có Thánh Thể nếu không có người cử hành Thánh Thể. Vì thế, Đức Giêsu đã trao ban thừa tác vụ đặc biệt cho các Tông đồ, để sau này, các ông sẽ đảm trách những việc làm như Đức Giêsu vừa làm cho đến ngày tận thế.

Thoạt mới nghe, chúng ta dễ tưởng lầm là Bí tích này chỉ có liên hệ hay dành riêng cho các linh mục? Nhưng không! Bí tích này liên hệ chặt chẽ với cộng đoàn, bởi vì Bí tích này thuộc về nhóm Bí tích xây dựng cộng đoàn.

Thật thế, chức vụ linh mục không phải cho bản thân mình, vì các ngài không thể tha tội cho mình, các ngài cũng không thể ban phát các Bí tích cho mình. Vì thế, linh mục là của mọi người, cho mọi người và vì mọi người.

Nếu Đức Giêsu trước kia đã đến để cho con chiên được sống dồi dào, thì ngày nay các linh mục cũng được trao ban trách vụ như thế. Ôi huyền nhiệm và cao quý vô lường! Qua Bí tích Truyền Chức, Đức Giêsu hiện diện cách trực tiếp khi các linh mục cử hành phụng vụ trong vai trò đại diện cho Đức Giêsu là Đầu của thân thể. Và, như thế, mỗi người chúng ta luôn được các ngài chăm sóc, nên không bị rơi vào tình cảnh bơ vơ, mồ côi vì không người chăn dắt. Các ngài sẽ thay mặt Chúa, thi hành việc của Chúa trong vai trò lãnh đạo, phục vụ và thánh hóa vì tình yêu.

Một lời trăng trối tâm huyết muôn đời nhớ mãi

Cũng chiều hôm nay, mỗi chúng ta quây quần nơi đây, để nghe đọc lại di ngôn và lệnh truyền của Đức Giêsu về tình yêu. Lệnh truyền này mang tính khẩn trọng, người môn đệ phải có thái độ mau mắn thi hành. Vì thế, đòi hỏi người môn đệ một sự bất khả từ, bởi lẽ đây là điểm sáng, là cốt lõi, là bản chất thiết yếu của người mang danh Đức Kitô trong mình.

Thật vậy, Đức Giêsu không chỉ trao ban chính Thân Mình để nuôi sống nhân loại, mà Ngài còn dạy cho các Tông đồ bài học về tình yêu, để đưa các ông vào qũy đạo của chính Ngài là “yêu và yêu đến cùng”.

Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu như Thầy là yêu như thế nào? Thưa yêu như Thầy chính là trở thành người tôi tớ phục vụ, là chấp nhận chết cho người khác được sống. Không những dạy các ông bằng lời, mà Ngài còn làm gương cho các ông noi theo. Vì thế, ngay lập tức, Ngài đứng lên, cởi áo choàng, thắt lưng, lấy nước rửa chân cho từng Tông đồ trước sự hết sức ngỡ ngàng của các ông. Ngỡ ngàng là phải, vì hành vi rửa chân là việc làm của người nô lệ dành cho ông chủ. Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã làm đảo lộn vai trò và vị trí khi tự làm những việc dành cho người hầu hạ, và các Tông đồ trở nên những ông chủ.

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Đức Giêsu nói tiếp: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15). Qua hành động rửa chân cho các Tông đồ, Đức Giêsu để lại cho các ông bài học về đức khiêm nhường và phục vụ. Tuy nhiên, để thực hiện được hai nhân đức này thì cần phải có tình yêu làm động lực.

Tình yêu thương được hiện lên như một ngọn hải đăng giữa biển khơi tăm tối, giúp cho mọi người nhận ra đường để đi và đi đến nơi an toàn. Vì thế Đức Giêsu đã dạy cho các ông biết trước viễn cảnh trong tương lai khi nói: “… mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).

Sống linh đạo Thánh Thể và thực hiện lời trăng trối của Đức Giêsu

Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11, 26).

Là người kitô hữu, chúng ta tin Chúa, yêu Chúa và đều mong muốn được ơn cứu độ, thì không có lẽ gì chúng ta không sống linh đạo Bí tích này.

Nếu muôn ngàn hạt lúa kết thành tấm bánh, bao trái nho ép thành chén rượu, tượng trưng cho sự hiệp nhất của con cái Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng phải hiệp nhất với nhau như vậy.

Muốn được như thế, tinh thần sống mầu nhiệm tự hủy của hạt lúa, trái nho luôn được mời gọi và thôi thúc thi hành.

Trong đời sống gia đình, người chồng phải là người chồng mẫu mực, sẵn sàng hy sinh gánh vác vì tình yêu với vợ và các con. Người vợ hãy hết lòng lo cho con cái, chăm lo cho chồng và con tử tế. Con cái biết ngoan ngoãn nghe lời cha mẹ… Làm được như thế, ấy là chúng ta đang thực hiện di ngôn của Đức Giêsu trong tinh thần hy sinh và phục vụ.

Nếu không yêu thương nhau, thì chẳng khác chi hạt lúa mì trơ trọi một mình, không sinh hoa trái. Nhưng yêu thương những người lân cận với mình thôi thì chưa đủ, mà phải yêu thương hết mọi người như Đức Giêsu đã yêu. Ngài đã không loại trừ Giuđa là kẻ rồi đây sẽ bán mình; không bỏ lại Phêrô là người sẽ thề sống thề chết không biết mình; không lên án và trách móc những người hại mình, mà: “Lạy Chúa, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)

Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay luôn ở bên tai, qua hành động và trong trái tim của chúng ta, để chúng ta yêu và yêu không giới hạn như Đức Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã để lại cho chúng con Bí tích kỳ diệu là chính Thánh Thể Chúa làm của ăn của uống cho mỗi chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến, tin tưởng và mau mắn loan truyền cho tới khi Chúa đến trong vinh quang. Xin cũng cho mọi suy nghĩ và hành động của chúng con được tình yêu làm căn cốt và thúc đẩy, để như Chúa, chúng con sẽ yêu rồi mới làm.Amen. [Mục Lục]

9. NỖI BUỒN GIUĐA- Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Một nhân vật xuất hiện trong sự kiện dẫn đến cuộc tử nạn của Chúa, chỉ trong chốc lát khi anh nộp Chúa bằng nụ hôn, rồi ra đi, gợi lên nhiều suy nghĩ.

Một câu hỏi của lương tâm.

Có người nói vì tham tiền, Giuđa bán Chúa với ba mươi đồng bạc. Có người thì bảo vì cần có một người đứng lên lật đổ chính quyền Roma, để đưa Chúa đến đường cùng phải ra tay. Tiền – quyền – hưởng thụ. Tất cả đều là những cám dỗ thường ngày của nhiều người, chứ không riêng gì đối với Giuđa. Giuđa là đại diện cho một con người bị lương tâm tra vấn khi dự định xấu bắt đầu được thực hiện, không thể dừng lại được nữa. Có những con người gây ra đau khổ, bất công, sự chết cho người vô tội mà vẫn nhởn nhơ, giương mặt kiêu căng thách thức, lương tâm đã chết từ lâu, vẫn còn lu loa đổ lỗi cho người vô tội. Họ còn ghê gớm hơn cả Giuđa vẫn đang đang sống trên cả pháp luật và kiêu hãnh với lương tâm chai lỳ của mình.

Giuđa và ruộng máu

Đồng tiền của Giuđa vất ra, các quan chức thượng tế, kinh sư đã tậu lấy một thửa ruộng, gọi là ruộng máu (Xem Mt 27, 3 – 10 ). Đồng tiền đã nhuốm máu người vô tội, ngày nay người ta không sử dụng đồng tiền này mua thửa đất để chôn cất người ngoại kiều; mà mua lấy đất, xây những biệt thự, dát vàng, mua lấy kim cương cho mình. Có lẽ thời đại xã hội đang sống đã đi vào một chỗ tệ hại rồi sao? Một bi kịch không phải của người công chính mà bi kịch của người đứng lỳ trong tội lỗi của mình. Lấy cái vỏ bọc hào nhoáng của biệt thự, siêu xe để che cái tội tệ nhân phẩm; lấy cái hưởng thụ xa hoa để lấp đi tiếng kêu oan, tiếng khóc của những người chịu áp bức, bị cưỡng chế, vu oan, tù tội…

Giuđa, người bị lợi dụng.

Sự thất vọng của Giuđa ra đi và vất tiền trả lại cho thượng tế và kinh sư, có lẽ anh nhận ra mình đã bị bọn quan chức kia lợi dụng? Cái đau khổ thất vọng của con người rơi vào một thảm trạng như Giuđa khám phá ra mình bị lợi dụng cho ý đồ đen tối của người khác, cũng có những hành động như vậy. Trong một cái đau khổ, không thể đứng ra tố cáo kẻ đã lợi dụng mình để đánh đập, chửi bới, vu oan, nộp người vô tội… là một sự thất vọng chán chường nhất vì chính mình. Giuđa rất thất vọng, thất vọng về mình đã bị lừa và cũng vì một phần lòng tham của mình, nghe theo sự dụ dỗ của kẻ sẵn sàng chi tiền cho mình làm điều ác không ngờ tới. Chỉ một nụ hôn thôi và được ba mươi đồng, chỉ cần một chút xíu tư lợi thôi, cũng sẵn sàng làm càn, bán mình cho người khác sử dụng vào việc làm hại, giết chết người khác.

Giuđa đi thắt cổ.

Thắt cổ, tự vẫn, một câu hỏi có đúng là như thế không, nơi mà người ta không biết chịu đánh đập dã man, xử lý mạnh tay dẫn đến cái chết của người tội nhân hay vô tội. Giuđa đi thắt cổ, là chính anh đi tự trừng phạt mình. Đó là một tòa án lương tâm khắc nghiệt nơi chính anh, không thể chấp nhận ngay cả chính mình phạm sai lầm cách thô thiển như thế. Có lẽ, anh cũng thất vọng với những tòa án, nơi mà anh không đủ can đảm chứng kiến, đóng đinh người vô tội. Anh không đủ can đảm nhìn đám đông gào thét, đòi đóng đinh người vô tội vào thập gía. Quá nhiều bất công, quá nhiều sự xấu bị đầu độc vào những con người bản chất là hiền lành. Vào thời điểm sự dữ dường như đang chiến thắng, những tội ác xảy ra từng ngày, không ai đứng ra xử cho công minh, chính trực, mà người ta phải tự xử lấy trong tức giận.

Giuđa và lòng thương xót của Chúa.

Giuđa là một bi kịch. Trong kết thúc của bi kịch đó là tự vẫn. Nhưng tự vẫn chỉ là điều người ta thấy bên ngoài. Như Lời Chúa trong sách Samuel khi đi tuyển chọn Đavit: “Ðừng nhìn đến dáng vẻ của nó, hay tầm vóc cao lớn của nó, vì Ta không màng đến nó; không phải người phàm nhìn sao, Thiên Chúa cũng không nhìn thế, bởi người phàm chỉ trông thấy (điều lộ trước) mắt, còn Yavê trông thấy (điều ẩn đáy) lòng” (1 Sm 16, 6). Lòng thương xót của Chúa là cửa ngõ cuối cùng cho con người, ai cũng có thể vào ngưỡng cửa ấy, kể cả những kẻ cả cuộc đời làm điều xấu, gây những điều tai hại khác, họ cũng được vào ngưỡng cửa của lòng thương xót. Chỉ cần có một điều, sám hối tự nhận ra trách nhiệm của mình ngay trước khi cái chết ập đến, như kẻ trộm: “Phần ta, thực tế phải lẽ, ta chuốc lấy đáng tội đã làm; nhưng ông này, ông không hề làm điều gì trái!” 42 Và hắn nói: “Lạy Ðức Yêsu, xin nhớ tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài!” (Lc 23, 41 – 42).

Ghen tỵ với kẻ tội lỗi ăn năn sám hối chăng?

Chúa có cách đền trả cho kẻ tội lỗi đã gây ra bất công, làm thiệt hại cho người khác trong thời gian sống của họ. Việc làm của Chúa cũng xuất phát từ cõi lòng ăn năn của người sám hối trước khi mất, có thể thấy như sự đền bù của ông GiaKêu: “ “Này nửa phần của cải tôi, thưa Ngài, tôi xin bố thí cho kẻ khó, và nếu tôi đã gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn” (Lc 19, 8). Hãy cầu nguyện cho người tội lỗi biết ăn năn, dù sớm hay muộn! Chúa có cách của Người.

Lạy Chúa. Chúng con cần cầu nguyện và dâng những hy sinh nhiều hơn nữa cho quê hương, đất nước của chúng con, khi thấy còn nhiều điều sự dữ tràn lan, xảy ra từng ngày. Cầu nguyện để Chúa thực hiện, thức tỉnh lương tâm, biến đổi sự xấu ra sự lành. Dâng những hy sinh để Chúa làm cho tình yêu chiến thắng thù hận, cho con người được sống dồi dào trong tình thương mến cùng với thiên nhiên hiền hòa. [Mục Lục]

10. YÊU THƯƠNG ĐẾN CÙNG– Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Tông đồ Gio-an khảng định: giờ Đức Giê-su ra đi chịu chết chính là đỉnh điểm (kairos) của đời sống Con Người (xem Ga chương 12 câu 27-34). Đó là thời điểm và cách thức mà Giê-su – Cứu Chúa có thể diễn đạt tình yêu của Thiên Chúa cách trọn vẹn nhất; “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng”. Tình yêu đó sẽ ôm ấp mọi con người, không loại trừ bất cứ ai, trong trường hợp cụ thể lúc đó kể cả Giu-đa lẫn Phê-rô, những kẻ đang rắp tâm phản bội hoặc yếu đuối bội phản Thầy. Tình yêu Thiên Chúa bao dung và rộng mở không biên giới; nhưng vấn đề chính ở đây là liệu người ta có sẵn lòng đón nhận tình yêu đó hay không. Vấn đề này về mặt lý thuyết xem ra rất đơn giản, nhưng trên thực tế lại không dễ dàng được chấp nhận. Câu chuyện Gio-an tường thuật là một minh họa rất rõ nét: trước khi lên đường đi chịu chết Đức Giê-su đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ Người. Điều gì đã xẩy ra vào buổi chiều hôm đó cũng có thể xảy ra cho bất kỳ ai, ở bất cứ đâu và vào bất cứ thời đại nào.

Trong tấn kịch này, vai diễn của Phê-rô có phần nổi trội hơn tất cả. Phản ứng của ông có thể là hoàn toàn tư riêng, nhưng chắc chắn nó cũng biểu lộ thái độ chung mà nhiều môn đệ khác cùng chia sẻ: “Thầy mà lại rửa chân cho con sao?… Không đời nào con chịu đâu!” Phản ứng này xem ra hoàn toàn hợp lý: làm sao người môn đệ có thể để ông thầy cúi xuống rửa chân cho mình? Nếu Đức Giê-su không nài ép, “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy”, thì có lẽ Phê-rô sẽ chẳng bao giờ chịu chấp nhận, và các môn đệ khác cũng không nốt.

Thế đấy! Tin và chấp nhận một Thiên Chúa khiêm hạ tới độ hủy mình ra như không, chỉ vì yêu thương tôi, một con người tội lỗi thấp hèn, là không dễ chút nào. Tôi dễ dàng chấp nhận một Thiên Chúa uy nghi cao cả đòi buộc tôi phải giữ phải tránh điều này điều nọ, một Thiên Chúa phán truyền mệnh lệnh, một Thiên Chúa thưởng phạt công minh…, nói chung một Thiên Chúa bề trên, kẻ cả; nhưng tôi lại thấy thật không thể chấp nhận nổi một Thiên Chúa đặt mình dưới cả tôi, cúi xuống trở nên thấp hèn hơn tôi, và sẵn sàng bị tước đoạt đi tất cả…, một Thiên Chúa kèo dưới… chỉ để yêu thương tôi. Tôi luôn có khuynh hướng tôn thờ, kính sợ Thiên Chúa, nhưng lại rất ái ngại đi sâu hơn nữa vào ‘lòng thương xót đến cùng’ của Người. Xét cho cùng thì tôi vẫn thấy ‘thái độ kính sợ Đức Chúa’ của Cựu Ước nói riêng, và của mọi tôn giáo nói chung, dễ chấp nhận hơn là tinh thần tự hủy của Tân Ước, như Đức Ki-tô Giê-su đã từng thể hiện trên thập giá. Thiết tưởng đây chính là ‘cớ vấp phạm’ lớn nhất của thập giá Đức Ki-tô mà Phao-lô đã đề cập tới, đặc biệt đối với những ai xưng mình là Ki-tô hữu (= người có đạo), là môn đệ (= linh mục tu sĩ) qua mọi thời.

Thế nhưng, đối với Đức Ki-tô, thì ‘cớ vấp phạm” ấy lại là một điều kiện tiên quyết (sine qua non), vì “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy”. Câu này là một khảng định chắc nịch chứ không chỉ là một lời mời gọi chung chung, một lời khuyên… không thi hành cũng được. Và ‘chung phần với Thầy’ chính là tham gia vào cái thứ tình yêu độc nhất vô nhị mà chỉ một mình Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su thập giá mới có, tức là yêu thương đến cùng, là yêu tới độ hủy mình ra như không, đặt mình vào chỗ thấp nhất trong thiên hạ hầu có thể trao ban và phục vụ.

Thiết nghĩ ít ai trong chúng ta đã không vấp phạm về điều này ít là một lần trong đời. Lấy một thí dụ nhỏ, có mấy ai trong chúng ta nghĩ rằng: các việc bác ái mình làm nhiều khi thật nông cạn và chẳng Tin Mừng tí nào không? Bao lâu ta còn chưa chịu để cho Chúa ‘rửa chân’ cho, bấy lâu ta còn thi hành một thứ bác ái trịch thượng của bậc kẻ cả, phục vụ đấy mà trên thế thượng phong ban phát. Riêng với các linh mục cảm nghiệm này còn phải cụ thể và thường xuyên hơn nữa; chẳng hạn, có bao giờ linh mục ngồi vào tòa giải tội trong tư thế mình còn thấp hèn hơn cả các hối nhân tới xưng tội, hoặc tiến ra cử hành Thánh Lễ mà cảm thấy Chúa đang cúi xuống rửa chân cho mình…, hoặc khi rước mình và máu thánh Chúa mà nghiệm thấy quá bất xứng vì được Chúa biến thành miếng ăn nuôi sống con người tội lỗi và bất toàn như mình chăng? Nhiều lần khi cho rước lễ tôi đã tận mắt chứng kiến việc Chúa đi vào các môi miệng, được trao vào các bàn tay mà đôi khi chính bản thân mình còn cảm thấy rờn rợn? Thế đấy, chính vì ‘để Thày rửa chân cho’ thường xuyên bị lãng quên mà bác ái phục vụ rất ít khi thực sự là quên mình, là cúi xuống; Thánh Lễ lúc đó sẽ nặng về tính thờ phượng kính tôn hơn là “Người yêu thương đến cùng”, ‘Alter Christus’ mang nặng nội dung chức thánh địa vị hơn là ‘mục tử tự hiến’, “vào chung phần với Thầy” được cắt nghĩa là vào hưởng vinh quang thiên quốc hơn là tham dự vào tình yêu thập giá tự hủy của Đức Ki-tô, và còn nhiều điều khác nữa…

Bài học ‘rửa chân’ thật mấu chốt và quan trọng biết bao! Thế nhưng thật đáng tiếc nó thường bị coi (kể cả bởi các chủ tế cử hành) chỉ như một biểu tượng cá biệt hơn là diễn tả hoàn hảo một mạc khải về tình yêu trao hiến phục vụ đích thực. Tệ hơn nữa nó còn bị thu hẹp thành một nghi thức phụng vụ được cử hành trong Thánh Lễ ngày Thứ Năm Tuần Thánh… và sau đó là kết thúc luôn, không còn được thực thi cách cụ thể trong cuộc sống đức tin của cuộc sống thường ngày.

Lạy Chúa Giê-su khiêm hạ vì yêu thương, xin cho con biết để cho chính con được Chúa rửa chân cho mỗi khi tiến ra cử hành Thánh Lễ, để con cũng được ‘chung phần’ với yêu đến cùng của Thập Giá. Vinh quang thập giá chính là vinh quang của tự hủy phải được tỏ rạng nơi mọi linh mục của Chúa, bây giờ và luôn mãi. Xin cho con, trước khi dám ‘cùng chết với Chúa’, biết khiêm tốn chấp nhận để Chúa chết và tự hủy ra như không vì con và cho con. A-men. [Mục Lục]

11. LÒNG THƯƠNG XÓT TỎA SÁNG- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Trong cái nắng chói chang của sa mạc, người lữ hành vẫn tìm được những ốc đảo có cây cối xum xuê bởi có nguồn nước. Trong cánh đồng khô hạn, thỉnh thoảng người nông dân vẫn bắt gặp những bụi cây ngọn cỏ xanh tươi. Trong một xã hội đầy rẫy sự ác và bất công, người ta vẫn có thể thấy được những tấm lòng bao dung, nhân ái. Cũng vậy, đọc các bài đọc của ngày thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta có cảm tưởng như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm, nhưng trong khung cảnh tối tăm đó, lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn tỏa sáng.

Câu chuyện xuất hành xảy ra vào thời điểm con cái Israel bị lưu đày tại Aicập. Tương lai của họ như mờ mịt bởi sự đàn áp của các Pharaon. Trong cảnh cùng cực đó, Thiên Chúa là người cha, đã nghe thấu tiếng than khóc của dân con Ngài. Thiên Chúa đã đem đến cho họ một tương lai tươi sáng qua cuộc xuất hành. Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh để bênh vực dân Ngài đã chọn. Để đánh dấu cuộc giải thoát vĩ đại này, Thiên Chúa đã chỉ thị cho Israel phải cử hành một nghi lễ sát tế con chiên vượt qua, lấy máu bôi lên khung cửa. Dấu máu này cho thấy họ thuộc về dân của Thiên Chúa và ai bôi máu chiên lên cửa thì sẽ được giải thoát. Trong đêm đó, Thiên Chúa sẽ đi ngang qua đất Aicập, nhà nào có dấu máu chiên, Thiên Chúa sẽ vượt qua và chúc phúc cho họ, nhà nào không có dấu máu chiên thì sẽ bị tru diệt.

Cuộc xuất hành cùng với nghi lễ ăn tiệc chiên vượt qua đã trở thành niềm tin ăn sâu vào đời sống của người Do Thái. Tất cả mọi người Do Thái đều nhìn biến cố này như một biến cố Thiên Chúa tỏ lòng xót thương đối với họ. Con chiên vượt qua và máu chiên là đấu chỉ cứu dân khỏi chết, đã trở thành biểu tượng rất thiêng liêng mà dân Israel đều ghi nhớ khi tham dự lễ vượt qua hàng năm.

Cũng trong truyền thống đạo đức này, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ bước vào bữa tiệc vượt qua. Nếu nghe câu truyện, chúng ta có cảm giác như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm cả không gian qua con người của Giuda, một kẻ đang bị ma quỷ sử dụng. Trong bầu khí rất cảm động và linh thiêng của bữa tiệc ly, Chúa Giêsu biết trước những gì sắp xảy ra cho mình, nên Ngài đã dành tất cả thời gian còn lại trên trần gian để bộc lộ tình thương của Ngài dành cho các môn đệ và cho nhân loại. Từng cử chỉ, từng hành động của Chúa Giêsu là từng cử chỉ, hành động của tình yêu và lòng thương xót đến cùng, là hành động yêu thương của một người thầy dành cho học trò, của một người cha dành cho các con trước lúc ra đi.

Trong bữa ăn đó, Chúa Giêsu đã thực hiện một việc rất lạ lùng. Ngài cầm bánh và chén trao cho các tông đồ và nói với các ông : Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con, các con hãy cầm lấy mà ăn. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước Mới, đổ ra để tha tội, các con hãy cầm lấy mà uống và hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Hành động này vượt quá sức tưởng tượng của các tông đồ, có lẽ ngay lúc ấy, các ông cũng chưa thể hiểu hết những việc Chúa làm. Qua việc biến bánh và rượu trở nên thịt máu Ngài, Chúa Giêsu muốn được ở lại và ở mãi bên những người mà Ngài yêu thương. Ngài muốn chúng ta đón nhận Ngài như là của ăn, để Ngài có thể đi vào trong tâm hồn từng người, làm nên chất dinh dưỡng nuôi sống con người.

Do tình yêu và lòng thương của một người thầy, người cha thúc đẩy, Chúa Giêsu không còn nghĩ gì đến bản thân mình, Ngài muốn thể hiện đến tận cùng lẽ yêu thương. Không chỉ trở nên của ăn để ở lại mãi với nhân loại, Chúa Giêsu còn trao cho các tông đồ quyền : Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã thiết lập nên chức Linh Mục, trao cho các tông đồ quyền nhân danh Ngài để tiếp tục nối dài tình yêu thương và sự hiện diện của Ngài với nhân loại. Trao cho các tông đồ quyền thể hiện lòng thương xót và sự hy sinh của mình, Chúa Giêsu đã chấp nhận trở nên hoàn toàn lệ thuộc vào các ông. Từ đây, khi các ông làm như Chúa đã làm, thì Chúa hiện diện trong việc làm của các ông. Mặc dù Chúa biết rất rõ, các tông đồ là những kẻ yếu đuối và đầy giới hạn, nhưng Chúa vẫn chọn các ông là những linh mục đầu tiên, để qua sự giới hạn bất toàn của các tông đồ và của các linh mục ngày nay, lòng thương xót của Chúa lại tiếp tục được trao ban cho thế giới.

Các tông đồ chưa hết bất ngờ bởi việc bẻ bánh Chúa Giêsu vừa thực hiện thì lại đến bất ngờ khác. Thánh Gioan thuật lại : Ngài yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng. Yêu đến tột cùng là không còn giới hạn, không còn tiếc gì và cũng không còn giữ lại điều gì cho riêng mình. Tình thương này không chỉ dành cho những người ưu tuyển, nhưng dành cho tất cả mọi người, kể cả Giuđa, kẻ đang bị ma quỷ điều khiển. Chúa Giêsu đã chỗi dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu và cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Với hành động này, Chúa Giêsu để cho lòng thương xót vượt trên tất cả, phủ lấp tất cả. Ngài không còn nghĩ gì đến địa vị của một người Thầy. Ngài đã cúi xuống để rửa chân cho các tông đồ, trong đó có Giuđa, kẻ đang nuôi trong lòng sự phản bội mà Chúa Giêsu đã biết.

Simon Phêrô và các tông đồ hết sức ngỡ ngàng đến độ không chấp nhận : Thưa Thầy, không thể như thế, Thầy không thể rửa chân cho con. Đối với người Do Thái, việc rửa chân là việc của nô lệ làm cho chủ, người tự do và con cái không phải làm việc này. Vậy mà, Chúa Giêsu đã xóa hẳn vị thế của mình là một người Thầy, để cúi xuống rửa chân cho các học trò. Điều này vượt quá lý lẽ thông thường của con người, nhưng với lý lẽ của tình yêu và lòng thương xót, thì việc làm này lại là việc làm có lý lẽ riêng của nó.

Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, trở về chỗ và nói : Anh em gọi Thầy là thầy, là Chúa, điều đó là phải. Vậy nếu Thầy là thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Bài học từ việc cúi xuống rửa chân đến đây đã rõ. Chúa Giêsu muốn dạy các ông bài học về sự phục vụ. Vì trở thành môn đệ của Chúa, thành những người nối dài tình yêu và lòng thương xót của Chúa, không phải để các tông đồ tìm kiếm một địa vị quyền lợi theo kiểu thế gian, nhưng là phải chấp nhận cởi bỏ con người của mình. Cởi bỏ con người tức là cởi bỏ địa vị, quyền lực, tham vọng, cởi bỏ cả cái tôi kiêu căng và thói tự ái, để có thể cúi xuống phục vụ anh em.

Sự phục vụ mà Chúa Giêsu mong muốn chúng ta làm không phải chỉ là sự phân phát bố thí, nhưng phải làm tất cả những việc đó bằng trái tim yêu thương và bằng sự trân trọng, tôn trọng anh em. Phục vụ tất cả mọi người không trừ ai, kể cả những người đang thù ghét và tìm cách hại mình, như Giuđa đang nuôi trong mình sự phản bội. Anh em cũng phải rửa chân cho nhau, Anh em hãy làm như Thầy đã làm không chỉ là một lời mời, mà là một đòi buộc đối với người môn đệ của Chúa. Chúa muốn những ai theo Chúa cũng phải dám cúi xuống để rửa chân phục vụ anh em mình. Chỉ khi dám cúi xuống mới có thể phục vụ đúng theo gương của Thầy Giêsu, chỉ khi cúi xuống chúng ta mới có thể nhìn thấy những nhu cầu của anh chị em để có thể cảm thông và chia sẻ.

Thưa quý OBACE, cử hành lễ Tiệc Ly hôm nay, chúng ta chiêm ngắm và cảm nhận một tình yêu trao ban đến tận cùng của Chúa Giêsu. Ngài đã ban tặng máu thịt làm của ăn của uống nuôi nhân loại. Ngài còn trao ban cả tự do và trọn con người của mình cho các tông đồ, khi lập Bí tích Truyền Chức. Ngài trao cho các ông quyền làm cho Ngài được hiện diện cách bí tích nơi trần gian cho đến ngày tận thế. Trước tình yêu trao ban lớn lao như thế, chúng ta được mời gọi đáp lại bằng việc đón rước Ngài một cách quảng đại, để cho Ngài đi vào tâm hồn và cuộc đời, để cho Ngài chiếm hữu và làm chủ đời ta.

Chúng ta cũng cầu nguyện cho các linh mục, các ngài chỉ là người phàm, mang đầy yếu đuối, nhưng lại được chọn để chia sẻ vào quyền năng của Thiên Chúa. Các linh mục được mời gọi để nhân danh Chúa, yêu thương và tiếp tục hiến tế cuộc đời mình cho anh em, theo gương Thầy Giêsu. Các linh mục đang từng ngày thánh hiến bản thân, nhưng vẫn không giũ hết khỏi mình sự lấm lem do yếu đuối. Chúng ta thông cảm, nâng đỡ và cầu nguyện cho các ngài.

Xin cho chúng ta thấm nhuần bài học phục vụ Chúa đã nêu gương, để trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng biết dẹp khỏi mình sự kiêu căng xét đoán, sự dửng dưng vô cảm, để biết cúi xuống phục vụ anh chị em. Xin cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để có thể nhìn thấy những nhu cầu và những đau khổ của anh em, để có thể có cái nhìn cảm thông. Xin cho chúng ta có một đôi tay giang rộng để có thể ôm ấp mọi người, để xoa dịu những đau khổ của kiếp người. Xin cho chúng ta có một đôi chân dẻo dai để có thể bước đến với anh em, xóa bỏ mọi ngăn cách nghi kỵ, hờn dỗi, để có thể đem tình yêu thương của Chúa đến cho họ. Amen. [Mục Lục]

12. CÁI CHẾT CỨU ĐỘ– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

(Ga 18,1-19,42)

Hôm nay chúng ta cửa hành ngày đầu tiên của Tam Nhật Thánh, ngày Chúa chết. Có người hỏi : Thánh sao được khi mà chính tội lỗi chúng ta đã giết chết Thiên Chúa, ngày đại tang của Giáo hội kia mà? Thưa, vì qua cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót bao la đối với nhân loại, và đã cứu chuộc chúng ta. Ngày này là ngàychiến thắng của Thập Giá, chính từ trên Thánh Giá, Chúa Giêsu đã trối lại cho chúng ta người mẹ tuyệt hảo nhất của chính Chúa là : Đức Maria, tha thứ cho những kẻ giết Chúa và lòng tin cậy vào Thiên Chúa là Cha.

Chúng ta đã nghe thấy những điều nói trên trong Bài Thương Khó Đức Chúa Giêsu theo thánh Gioan, hiện diện trên đồi Calvariô có Mẹ Người là Đức Maria, cùng với một số phụ nữ thánh thiện khác. Đây là một trình thuật giầu tính biểu tượng, mọi cử chỉ, lời nói, hành động đều có ý nghĩa. Ngay cả sự thinh lặng và chay tịnh của Giáo hội hôm nay cũng giúp chúng ta sống bầu khí cầu nguyện, ý thức rõ về hồng ân mà chúng ta đang cử hành.

Trước mầu nhiệm cao cả này, chúng ta được mời gọi để nhìn lên phía trước. Niềm tin của chúng ta, những người tin vào Thiên Chúa, không phải là tôn thờ một Thiên Chúa trừu tượng xa vời chúng ta không biết, nhưng là liên đới với một Ngôi Vị sống động là Chúa Giêsu, con Thiên Chúa làm người, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đấng Vô Hình đã nhập thể làm người trong thế giới hữu hình, đã sống trọn thân phận con người cho đến chết và chết trên thập tự. Cái chết của Chúa Giêsu là cái chết cứu chuộc, một cái chết mang lại sự sống cho loài người. Cái chết ấy chính là của lễ cao cả dâng lên Chúa Cha, được Chúa Cha ưng nhận đã trở nên giá chuộc cho nhiều người. Những người đứng bên Thánh Giá đã chứng kiến và sống, đồng thời truyền lại cho chúng ta, chúng ta khám phá ra ý nghĩa của cái chết này.

Chúng ta hay đem lòng ngưỡng mộ và biết ơn. Chúng ta biết cái giá của tình yêu : “Không có tình yêu lớn lao hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Kinh nguyện Kitô giáo không chỉ là cầu xin, mà trên hết vẫn là để ngưỡng mộ với lòng biết ơn.

Chúa Giêsu, đối với chúng ta, là mẫu gương cho chúng ta học đòi bắt chước, nghĩa là được tái hiện trong ta. Chúng ta phải là những người yêu thương đến thí mạng sống mình và tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha trong mọi hoàn cảnh.

Điều này trái ngược với bầu không khí thờ ơ của xã hội hôm nay; chính vì thế chúng ta phải là những chứng nhân dũng cảm hơn bao giờ hết, vì tất cả là hồng ân. Như Mêlitô thành Sarđi nói : “Người làm cho chúng ta từ nô lệ sang tự do, từ bóng tối đến ánh sáng, từ sự chết cho đến sự sống. Người là Lễ Vượt Qua cứu độ chúng ta“.

Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc thế gian. Amen. [Mục Lục]

13. HÃY RỬA CHÂN CHO NHAU – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

(Ga 13, 1-15)

Hôm nay Thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta kỷ niệm ngày đầu tiên trong Lịch sử, ngày Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta cùng với các môn đệ cử hành lễ Vượt Qua. Người đã kiện toàn Lễ Vượt Qua của Giao Ước mới, bằng việc tự hiến chính thân mình làm của lễ cứu độ chúng ta.

Chính trong bữa Tiệc Ly Thánh này, cùng một thể thức ấy, Chúa Giêsu đã thiết lập Thiên Chức Linh mục. Để qua các linh mục, Thánh lễ được tiếp tục cửa hành cho đến muôn đời. Kinh Tiền của Thánh Lễ làm phép Dầu sáng nay mạc khải đầy đủ cho chúng ta ý nghĩa ấy : “Chúa đã lấy tình huynh đệ tuyển chọn một số người, để họ tham gia thánh vụ của Người nhờ việc đặt tay. Cha muốn họ nhân danh Người tái diễn hy lễ cứu độ, dọn cho con cái Cha bàn tiệc Vượt Qua, lấy tình thương dẫn dắt, lấy lời Cha nuôi dưỡng và dùng các bí tích bổi bổ dân thánh của Cha“.

Và cũng chính ngày Thứ Năm này, Chúa Giêsu nói : “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34), như thế, giới luật yêu thương đã được Chúa ban truyền. Xưa kia, tình yêu dựa trên sự đổi trác, hoặc thặc hiện một khế ước nào đã được định trước. Giờ đây, tình yêu kitô giáo được đặt trên nền tảng là Chúa Kitô : “Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Người yêu thương chúng ta đến mức phải hy sinh mạng sống của chính mình: đây chính là thước đo tình yêu của người môn đệ đối với Thầy Giêsu và điều này cũng là dấu chỉ, đặc tính của sự nhận biết Kitô giáo : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).

Con người chúng ta không có khả năng yêu đến như thế. Tình yêu không đơn giản chỉ là kết quả nỗ lực của con người, nó là quà tặng của Thiên Chúa. Hạnh phúc thay, Thiên Chúa là Tình yêu, đồng thời Ngài cũng là nguồn mạch của tình yêu, trao tặng cho chúng ta nơi Bí tích Mình Máu Thánh Chúa, Bí tích Tình Yêu.

Sau cùng, hôm nay chúng ta tưởng nhớ tới việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Con Thiên Chúa làm người, là Đức Chúa, đã mặc lấy thái độ của người tôi tớ và quì xuống rửa chân cho các môn sinh của Người, đồng thời khuyên họ rửa chân cho nhau “Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,13-14). Trong cử chỉ của Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh, chất chứa một bài học cao cả về sự khiêm nhường. Cử chỉ này báo trước sự tự hủy hoàn toàn trong cuộc Thương Khó mà Chúa Giêsu phải chịu để cứu độ thế gian.

Romano Guardini, một thần học gia nói rằng : “Thái độ của người tôi tớ quì gối trước ông chủ, đó không phải là khiêm tốn. Đơn giản là việc anh ta phải làm, hoàn toàn đúng. Một người xứng quì gối trước kẻ tiểu nhân mới là người khiêm nhường thật sự“. Chúa Giêsu một Vì Thiên Chúa đã làm như thế. Đó là lý do tại sao nói Chúa Giêsu là Đấng khiêm nhường tột độ. Vậy, đứng trước Chúa Giêsu Kitô, Đấng khiêm nhường này, các mô hình truyền thống bị phá vỡ. Chúa Giêsu đã đảo ngược các giá trị thuần túy của con người và mời gọi chúng ta noi gương Người để xây dựng một thế giới mới dựa trên sự phục vụ hy sinh. Vậy chúng ta hãy rửa chân cho nhau, nghĩa là phục vụ giúp đỡ nhau, giúp nhau cùng thăng tiến.

Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều Chúa truyền dạy để đưa vào trong cuộc sống đạo hàng ngày của mỗi người chúng ta. Amen. [Mục Lục]

14. THÁNH THỂ, THIÊN CHỨC LINH MỤC VÀ GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

(Ga 13, 1-15)

Phụng vụ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập vào sau bữa tối cuối cùng với các Tông Đồ trong nhà Tiệc Ly, trước Đêm Hấp Hối trong Vườn Cây Dầu, để muôn đời tưởng nhớ tới sự Hiện Diện Thực Sự của Người giữa chúng ta. Đây là Thánh lễ sau hết được cử hành trước Đêm Vọng Phục Sinh Thứ Bẩy Tuần Thánh. Vì là Lễ sau hết nên lúc hát Kinh Vinh Danh, các chuông nhà thờ reo lên, và sẽ chỉ reo lại vào đúng lúc hát Kinh Vinh Danh trong Đêm Vọng Phục Sinh. Sau Thánh lễ chiều nay, các khăn bàn thờ đều được lột sạch, các chân nến và thánh giá được cất đi, người ta không còn trưng hoa nữa để loan báo ngày đại tang của Giáo hội và cũng ngụ ý nói rằng, Giáo hội không cử hành lễ nào nữa cho đến ngày Chúa Kitô sống lại.

Cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mục đích của Tam Nhật Vượt Qua. “Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại ; chính Người giải thoát và cứu độ ta” ( Ca nhập lễ ).

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1-2). Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ, thì Người đã yêu họ đến cùng một cách kinh ngạc. Thật không có hành động nào khác để diễn tả yêu thương cho bằng tình yêu. Cũng như các môn đệ, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi không có ngòi bút nào trên trần gian này có thể diễn tả hoặc viết ra hết được tình yêu thương ấy, trong những ngày cuối đời của “kiếp người” lầm than và cay đắng. Vì yêu, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, lấy chính Thịt Máu Mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng chúng ta. Để tiếp tục yêu thương và tha thứ, Chúa thiết lập thiên chức Linh mục đời đời. Và cũng chính hôm nay, Chúa truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu.

Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta… Các con hãy cầm lấy mà uống, chén này là Tân ước trong Máu Ta” (1 Cr 11, 24-25). Thật không thể hiểu nổi, Thiên Chúa yêu nhân loại biết là chừng nào. Ngài đã yêu bằng một Tình Yêu trao ban, hy sinh và tận hiến. Khi lập Phép Thánh Thể, Chúa hiến chính thân mình làm lượng thực nuôi dưỡng chúng ta, ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Không những thế, Chúa còn cho chúng ta tham dự vào sự sống của chính Chúa khi rước Mình và Máu Thánh Ngài, để được sống đời đời.

Thiết lập Bí tích Thánh Thể xong, Chúa Giêsu cũng lập luôn Bí tích Truyền Chức Thánh. Chúa nói với các Tông Đồ hiện diện : “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19 ;1 Cr 11, 24). Với lời trên, cho thấy Thiên Chúa tiếp tục yêu thương và tín nhiệm con người. Mặc dù phàm nhân bất xứng, Chúa vẫn ủy thác cho sứ mạng thay mặt Chúa hiện tại hóa Hy tế Thập giá trên bàn thờ mỗi ngày, tất cả chỉ vì yêu.

Sau khi rửa chân cho các môn đệ, một lần nữa, Người mời gọi chúng ta : “Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15). Bằng cách này, Người thiết lập một sự liên kết thân mật giữa Bí tích Thánh Thể, Bí tích của quà tặng hy sinh và huấn lệnh yêu thương.

Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thiết lập thiên chức Linh mục, chúng ta có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại một câu rất sâu sắc nhưng cũng cần phải tìm hiểu thêm : Không có Thánh Thể thì không có chức Linh mục – không có chức Linh mục thì cũng không có Bí tích Thánh Thể (chỉ một lần rồi thôi). Hai điều đó gắn chặt, liên kết với nhau nhờ đức bác ái. Không thể tham dự Thánh Thể nếu không có Tư Tế, nhưng cũng không thể tham dự Thánh Thể nếu không có đức bác ái và sự tha thứ. Trong Bí tích Thánh Thể, tất cả chúng ta đều tham dự vào một Mình Thánh, một Máu Thánh, trở nên một thì chúng ta không còn tách biệt được nữa.

Ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì người đó không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh chị. Mỗi lần chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng nói “Amen” trước Mình và Máu Thánh Chúa, như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là “rửa chân” cho anh chị em, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ”(Phil 2,7).

Tình yêu là di sản cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Người kêu gọi bước theo. Chính tình yêu của Người, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.

Thánh Thể là một ban tặng cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.

Nghi thức rửa chân nói lên sự khiêm tốn của mình đối với người khác, nhìn nhận rằng mình là người có tội, nếu có điều gì là do tôi chứ không phải do anh em, tha nhân thật sự là anh em của tôi. Bác ái không phải là chối từ việc người khác không có lỗi, nếu lỗi là có lỗi với Chúa. “Rửa chân cho nhau” chứ không phải rửa chân cho người trên hay cho người dưới, tất cả đều là tha thứ, yêu thương và giúp đỡ nhau.

Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều này để đưa vào trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ [Mục Lục]

15. TIỆC LY, BỮA TIỆC CỨU ĐỘ- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Có lẽ trong đời mình, nhiều người trong chúng ta đã từng tổ chức các bữa tiệc khác nhau: tiệc cưới, tiệc giỗ, tiệc tân gia, tiệc sinh nhật, tiệc thôi nôi, tiệc đầy tháng, v.v… Còn đối với Chúa Giêsu, trong suốt cuộc đời dương thế của mình, Ngài chỉ “tổ chức” duy nhất một bữa tiệc, cũng là “tiệc chia tay” với các môn đệ dấu yêu trước khi Ngài đi vào cuộc thương khó, tử nạn. Bữa tiệc duy nhất này vẫn thường được gọi bằng cái tên rất dễ thương: Tiệc Ly. Tuy nhiên, đây không phải là bữa tiệc ly – tiệc chia tay thông thường, mà là bữa tiệc đặc biệt nhất, quan trọng nhất, và cũng gây nhiều cảm hứng nhất cho các nhà điêu khắc, hội họa trong lịch sử nhân loại. Vậy Tiệc Ly là bữa tiệc gì mà đặc biệt như thế?

Tiệc Ly, trước hết, là bữa tiệc Vượt Qua. Chúa Giêsu đã khẳng định điều này: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em, trước khi chịu khổ hình” (Lc 26,15). Chúng ta biết Lễ Vượt Qua của người Do Thái bắt đầu vào tối Thứ Sáu. Nhưng Chúa Giêsu đã ăn tiệc Vượt Qua vào tối Thứ Năm, nghĩa là Ngài ăn lễ trước một ngày. Vì đêm Thứ Sáu và ngày Thứ Bảy, Chúa Giêsu đã chết và đang ở trong mộ đá. Và vì là tiệc Vượt Qua, nên Chúa Giêsu đã đích thân lên chương trình kỹ lưỡng: từ việc mượn phòng tiệc, sắp đặt các chỗ ngồi, chuẩn bị đồ ăn thức uống, rồi sai các môn đi chuẩn bị trước. Nhưng đây cũng là lễ Vượt Qua được “làm mới”. Mới ở chỗ: nếu trong lễ Vượt Qua thời Cựu Ước, máu chiên của cuộc vượt qua được bôi lên cửa nhà những người Do Thái, làm cho tai họa “bỏ qua” nhà họ và các con trai đầu lòng của họ thoát chết, thì trong bữa Tiệc Ly – lễ Vượt Qua mới, chính Chúa Giêsu đã trở thành Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Máu của Ngài – máu của Chiên Thiên Chúa sẽ giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết để được trường sinh trong Vương Quốc của Ngài.

Tiệc Ly, thứ đến, còn là bữa Tiệc Thánh. Là bữa Tiệc Thánh vì tất cả những gì liên hệ đều thánh. Người chủ sự bữa tiệc hôm đó không phải là một người phàm, dù đó là người gia trưởng trong các gia đình Do Thái hoặc là Môisê hay Aaron đi nữa; chủ tiệc là Con Thiên Chúa, Đấng “ba lần thánh”. Cả đến đồ ăn thức uống của bữa tiệc đó, tức là bánh và rượu, cũng đã trở thành “của ăn của uống cực thánh” – Mình và Máu châu báu của Chúa. Điều đặc biệt hơn nữa: bữa Tiệc Thánh này sẽ được tiếp nối và kéo dài cho đến tận thế, và những người làm công việc tiếp nối này cũng được “thánh hiến” qua Bí tích Truyền Chức mà Ngài sẽ thiết lập ngay sau đó. Tất cả những gì “liên hệ” tới lễ Tiệc Ly này đều trở thành “thánh”: Thánh lễ, chén thánh, đĩa thánh, khăn thánh, Bánh Thánh, Máu Thánh…

Sau nữa, Tiệc Ly còn là bữa tiệc yêu thương phục vụ. Thánh Gioan đã viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Ngài “yêu thương tất cả những kẻ thuộc về mình”, yêu thương cả Giuđa là kẻ nhẫn tâm phản bội Ngài; yêu thương cả Phêrô là kẻ vô tâm chối bỏ Ngài. Nhưng không phải là yêu thương một cách chung chung mà là yêu thương từng người, cũng không phải là yêu thương một cách hời hợt như ta thường thấy giữa thầy trò, mà là “yêu thương đến cùng”, yêu thương đến độ hiến mạng sống mình, biến thịt máu mình làm của ăn của uống nuôi sống linh hồn. Cử chỉ rửa chân là cử chỉ nói lên sự yêu thương phục vụ đúng nghĩa của nó: yêu thương thì không nề hà, yêu thương thì không tính toán, yêu thương thì không phân biệt đẳng cấp thứ bậc, chủ tớ…; yêu thương thì sẵn sàng quên mình đi để phục vụ.

Có khi nào chúng ta thấy trong một bữa tiệc mà Đức Giám Mục, hay Đức Giáo Hoàng đi lại phục vụ chén bát, phân phát đồ ăn thức uống, châm đá, hoặc bưng nước cho giáo dân rửa tay chưa? Có lẽ là chưa! Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã làm công việc phục vụ đó, nhưng không chỉ “bưng nước”, mà Ngài còn đích thân cúi xuống rửa chân cho từng người một. Ngài là vị Thiên Chúa mà dân Israel không dám gọi bằng tên, càng không dám tới gần. Nhưng nay Ngài đến thật gần với con người, và không những thế Ngài còn cúi xuống thật thấp trong cung cách là một người tôi tớ, người rốt hết, chứ không phải là một người chủ.. Đây là một cử chỉ nói lên cung cách phục vụ khiêm nhường thẳm sâu nhất của Ngài. Và Ngài cũng mời gọi các môn đệ của Ngài hãy yêu thương phụ vụ như Ngài đã nêu gương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương” (Ga 15,12); “Anh em cũng hãy rửa chân cho nhau”, nghĩa là “hãy phục vụ nhau như thế”!

Nếu người ta cám ơn thánh Luca vì ngài là vị thánh sử duy nhất đã ghi lại lời Chúa Giêsu dạy về dụ ngôn người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-31), thì ta cũng phải biết ơn thánh Gioan vì ngài cũng là vị thánh sử duy nhất ghi lại biến cố vô cùng ý nghĩa xảy ra trước giờ phút Chúa chịu tử nạn, đó là biến cố Ngài rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,1-20).

Vì những yếu tố trên, Tiệc Ly trở thành bữa tiệc vô tiền khoáng hậu, bữa tiệc cứu độ.

Trong mỗi Thánh Lễ, trước khi rước lễ, linh mục đều nâng bánh rượu và xướng rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa Đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Là Kitô hữu, chúng ta thật diễm phúc vô cùng, vinh dự vô cùng vì hằng ngày chúng ta được Chúa mời tham dự bữa tiệc đặc biệt này. Hãy dâng lời tạ ơn Chúa luôn. Và một trong những cách thế tạ ơn tốt nhất, thiết nghĩ, đó chính là nỗ lực để “thực thi tình yêu và lòng thương xót” đối với anh chị em đồng loại như Chúa đã nêu gương.

Tất nhiên, Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã rửa chân được cho bao nhiêu người, nhưng Chúa sẽ hỏi đôi bàn tay chúng ta đã giúp đỡ sẻ chia cho được những ai! Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã hôn được bao nhiêu bàn chân, nhưng Chúa sẽ hỏi môi miệng chúng ta đã làm cho bao nhiêu người được an vui hạnh phúc. Chúa không muốn chúng ta trở thành những người thợ làm thuê (rửa chân – hôn chân thuê), những robot, người máy của thời hiện đại, nhưng muốn chúng ta thực sự trở thành những con trai con gái của một vị Thiên Chúa yêu thương, yêu thương đến cùng bằng nỗ lực thực hành giới luật yêu thương mà Chúa đã dạy (x. Tình Chúa – Tình Người, Lm. Giuse Dương Hữu Tình).

Cụ thể đó là ta đã cúi xuống để có thể lắng nghe và cảm thông với những đau khổ và nhọc nhằn của anh chị em đồng loại hay chưa? Ta đã cúi xuống để phục vụ cha mẹ già trong gia đình, gia tộc mình, bằng sự yêu thương kính trọng hay chưa? Ta đã cúi xuống để yêu thương và phục vụ chồng của mình, vợ của mình, con cái của mình bằng sự hy sinh trao hiến chưa? Ta đã quan tâm đến hàng xóm láng giềng, là những người sống bên cạnh chúng ta nhiều hơn chưa?

Dĩ nhiên để có thể yêu thương theo cung cách của Chúa yêu là không dễ chút nào. Cần phải có ơn Chúa trợ giúp. Bí tích Thánh Thể chính là nguồn trợ lực vô cùng cần thiết.

Vậy xin cho mỗi người chúng ta biết năng tham dự Thánh lễ và tiếp nhận Thánh Thể Chúa mỗi ngày, nhờ đó ta có thêm sức mạnh để thực thi giới luật yêu thương đối với anh em mình như Chúa dạy, và để nhờ đó mà ta có được sự sống đời đời mai sau. Amen. [Mục Lục]

16. YÊU THƯƠNG ĐẾN CÙNGTrích Logos B

Trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 07/4/2006, người ta đã đăng một mẩu tin ngắn : “Cần gấp máu B- (B trừ) cho một em bé Việt Nam”.

Mẩu tin nhắn trên là lời kêu gọi của một tổ chức bảo trợ trẻ em, một tổ chức phi chính phủ mang tên Christina Noble Foundation. Tổ chức này đang giúp phẫu thuật tim cho em bé tên Nguyễn Thị Hồng Cẩm, 4 tuổi, thuộc một gia đình rất nghèo ở Sóc Trăng.

Em bé được đưa đến Viện Tim Thành Phố Hồ Chí Minh để mổ tim. Nhưng em bé lại là một người thuộc một nhóm máu rất hiếm, đó là nhóm máu B- (B trừ). Để phẫu thuật cho em, người ta cần đến 6 người có nhóm máu B- hiến máu.

Tin vừa đăng trên báo, hằng trăm người từ khắp nơi đã gọi điện thoại về tòa soạn xin hiến máu. Những người này thuộc đủ mọi thành phần, có cả những người ngoại quốc đang công tác tại Việt Nam.

Người ta chọn được 6 người có nhóm máu hiếm kể trên : trong số đó có 4 người Việt Nam và 2 người ngoại quốc. Bài báo đã kết luận bằng một lời nói đầy ý nghĩa : “máu hiếm, nhưng tấm lòng không hiếm”.

Câu chuyện về những người hiến máu trên đây cho chúng ta một suy nghĩ : quả thật, con người có nhiều nhóm máu khác nhau. Nhưng dù là loại máu nào, tất cả đều có chung một yếu tố : đó là lòng yêu thương và tình nhân ái luôn chảy trong huyết mạch của con người.

Câu chuyện về những người hiến máu trên đây cũng còn dẫn đưa chúng ta đến với lời tường thuật đầy xúc cảm của thánh Gioan trong bài Tin Mừng : “Trước ngày lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha. Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng”.

Để yêu thương đến cùng, Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể

Quả thật, trong giờ phút ấy, Chúa đã yêu thương các môn đệ đến cùng. Để yêu thương đến cùng, không phải Chúa chỉ “hiến máu” cho con người, như người ta vẫn làm cho nhau để tỏ lòng nhân đạo. Nhưng để yêu thương đến cùng, Ngài đã lấy chính Thịt Máu mình để nuôi nhân loại qua bí tích Thánh Thể.

Thánh lễ chiều nay được gọi là Lễ Tiệc Ly, bữa tiệc của tình yêu. Trong buổi tiệc ly, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể. Đó là cách diễn tả tình yêu vừa độc đáo vừa sâu xa nhất.

Quả thực, Chúa đã yêu thương đến cùng, nên để biểu lộ tình yêu vô cùng vô tận đó, Chúa đã trao ban chính Thịt và Máu mình để nên lương thực nuôi dưỡng nhân loại. Chỉ có cách thức ấy, Chúa mới có thể hòa nhập trọn vẹn vào trong con người. Ôi ! Tình yêu ấy sâu thẳm biết bao ! Cho dẫu tình yêu vợ chồng “một xương một thịt” cũng không thể sánh bằng.

Hôm nay, bài đọc I, trích sách Xuất Hành, kể lại bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái : trong bữa ăn ấy, dân Do Thái dùng bánh không men, ăn với thịt chiên nướng, rau diếp đắng và uống rượu nho. Có điều đặc biệt là họ lấy máu chiên bôi lên cửa. Đó là dấu hiệu để thiên thần Chúa vượt qua và tha không giết chết con trai đầu lòng của họ.

Chúa Giêsu chính là Chiên Vượt Qua, nhưng Máu Thánh Ngài không chỉ là dấu hiệu, nhưng đã trở thành giao ước đem đến ơn cứu độ cho mọi người. Máu của Chúa đã nên giá cứu chuộc cho nhân loại.

Để yêu thương đến cùng, Chúa Giêsu đã lập chức Linh Mục

Tình yêu của Chúa thật vô biên. Tình yêu ấy không muốn dừng lại, nhưng kéo dài mãi mãi. Để diễn tả tình yêu vô tận ấy, Chúa Giêsu đã lập bí tích Truyền Chức Thánh. Chính trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và rượu, trao cho các môn đệ và căn dặn :

“… Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Các linh mục chính là những nhịp cầu thiêng liêng tiếp nối tình yêu thương của Chúa Giêsu đến tận cùng thế giới.

Đôi tay linh mục sẽ là bàn tay nối dài của Chúa Giêsu, bẻ tấm bánh đời Ngài để thông chia cho anh em mình. Đôi chân linh mục sẽ là bước chân nối dài của Chúa Giêsu, tiếp tục đi gieo vãi Tin Mừng tình yêu. Trái tim linh mục sẽ tiếp nối nhịp đập của trái tim Chúa Giêsu, sẻ chia tình yêu đến giọt máu cuối cùng.

Vì thế, có thể nói, Thứ Năm Tuần Thánh là “ngày của linh mục”, ngày sinh nhật của thiên chức linh mục. Chớ gì các linh mục luôn cảm nhận được hồng ân đó để luôn cảm tạ Chúa và nhất là luôn trở nên linh mục như lòng Chúa mong ước, linh mục luôn biết yêu và yêu đến cùng theo gương Chúa Giêsu Linh Mục.

Để yêu thương đến cùng, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ

Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã cử hành hai nghi thức thật trang trọng : đó là lập bí tích Thánh Thể và rửa chân cho các môn đệ. Cả hai cử chỉ đều bộc lộ tình yêu đến tột cùng của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ.

Trong bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh và rượu trao cho các môn đệ một cách trang trọng như trao một của gia bảo. Đó chính là Mình và Máu Thánh Chúa được trao ban cho các môn đệ thân yêu. Cử hành bí tích Thánh Thể thật trang trọng là một điều dễ hiểu. Nhưng thật lạ lùng, ngay cả việc rửa chân cho các môn đệ, một việc làm của các nô lệ, cũng được Chúa cử hành một cách trang trọng không kém.

Sau bữa ăn, Chúa Giêsu trỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu, Ngài rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.

Khi Chúa Giêsu cử hành việc rửa chân một cách trang trọng như vậy, Ngài có ý muốn dạy các môn đệ một bài học thật quý giá :

– Chúa Giêsu là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các môn đệ, thì các môn đệ cũng phải rửa chân cho nhau. Quả thật, bài học đó vẫn còn giá trị cho chúng ta ngày hôm nay. Một vị Thiên Chúa cao cả đã cúi xuống phục vụ cho con người, thì tại sao con người chúng ta lại không biết phục vụ lẫn nhau ?

– Cử hành bí tích Thánh Thể là một việc làm thiết yếu trong đời sống đạo của người kitô hữu. Nhưng việc rửa chân cho nhau cũng là một việc làm quan trọng không kém trong đời sống đức tin của mỗi người. Vì vậy, mỗi ngày chúng ta cử hành bí tích Thánh Thể để hướng về Chúa và “cử hành” việc rửa chân để hướng về con người.

Ngày kia, Mẹ Têrêxa Calcutta hỏi một chị nữ tu thuộc dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ :

– Suốt buổi sáng con đã làm gì ?

Chị nữ tu thưa :

– Thưa Mẹ con đã tắm rửa cho Chúa Giêsu.

Thì ra, chị nữ tu đó mới bước ra từ nhà hấp hối, một căn phòng dành cho các bệnh nhân sắp qua đời. Chị mới tắm rửa cho một bệnh nhân phong cùi đang hấp hối. Chị gọi việc tắm rửa cho người ấy là tắm rửa cho Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu đã yêu thương đến cùng, đến nỗi đã cúi xuống để phục vụ chúng ta, phục vụ đến hy sinh mạng sống vì chúng ta. Chúng ta hãy bắt chước Ngài để cũng biết phục vụ Chúa trong anh chị em mình, phục vụ như Chúa đã phục vụ. [Mục Lục]

***

 THỨ SÁU TUẦN THÁNH

1. TÔN KÍNH THÁNH GIÁ- Lm. Carolô Hồ Bặc Xái

Nghi thức Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh không phải là Thánh lễ mà chỉ là một lễ nghi phụng vụ tôn kính Thánh giá Chúa Giêsu và tưởng niệm việc Ngài chịu chết.

LỜI CHÚA

Bài đọc I: Is 52,13 – 53,12

Ðây là bài ca thứ tư về Người Tôi Tớ trong sách Isaia, bài tiêu biểu nhất trong 4 bài. Có 3 ý lớn:

Người Tôi Tớ ấy phải chịu rất nhiều đau khổ về cả thể xác lẫn tinh thần.

Nhưng bản thân Người Tôi Tớ thì vô tội. Sở dĩ Người chịu khổ như thế là vì tội của người khác.

Vì thế những đau khổ của Người đem lại ơn tha thứ và ơn cứu rỗi cho nhiều người khác.

Ðáp ca: Tv 30

Ðây là lời cầu nguyện của tín hữu trong lúc bị đau khổ. Người tín hữu bày tỏ niềm trông cậy vào Thiên Chúa và phó thác đời mình trong tay Chúa.

Trong lúc tắt hơi, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng một câu của Tv này “Con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

Bài đọc II: Dt 4,14-16-5,7-9

Tác giả thư Do thái coi Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết là Vị Thượng Tế tự nguyện chịu khổ để mang ơn cứu độ cho nhân loại.

Bài Thương khó theo Thánh Gioan: Ga 18-19

Những ý tưởng mà Thánh Gioan muốn nhấn mạnh đặc biệt trong bài tường thuật này:

a/ Chúa Giêsu là người tự do: Ngài biết trước mọi việc sắp xảy đến, nhưng Ngài không trốn tránh, trái lại hoàn toàn ý thức và tự nguyện đi vào những biến cố bi thảm đó. Như thế cuộc chịu nạn chịu chết của Ngài là một chuỗi những hành đông tự do.

b/ Chúa Giêsu là Vua: trong vụ án này, bề ngoài xem ra Chúa Giêsu là tội nhân, là bị cáo. Nhưng Gioan đã nhận ra Ngài là Vua, là kẻ chủ động và là quan tòa.

c/ Qua việc chịu chết, Chúa Giêsu tuôn đổ Thánh Thần xuống cho các môn đệ.

GỢI Ý GIẢNG

Những lời cuối cùng

Có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của một người sắp chết mà biết được người đó như thế nào, bởi vì trước khi chết người ta chỉ nói những gì mình tha thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy, chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Ðức Giêsu trước lúc tắt hơi trên Thập Giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Ðức Giêsu hơn.

Triết gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau: thường là họ chửi rủa: chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rũa những kẻ đứng xem, có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hào Cicéron cho biết thêm, trong những cuộc xử tử ở đế quốc Lamã, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe tiếng chửi rủa. Và trong cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm bị đóng đinh chung với Ðức Giêsu đã chửi rủa lung tung, chửi cả Ðức Giêsu là người chẳng thù oán gì với hắn.

Chiều hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Ðức Giêsu: những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành hình Ngài: các Tư tế và biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu xỏ vận động kết án xử tử Ngài; dân chúng đứng phía dưới thập giá chờ vì họ đoán rằng Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng: Hãy thương yêu kẻ thù… Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình” giờ đây sắp nói khùng, sẽ quên hết những giáo huấn Tin mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa thậm tệ.

Thế nhưng khi Ðức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sửng sờ. Không phải những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng. Câu thứ nhất “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ”; câu thứ hai “Tôi hứa thật với anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi”; và câu thứ ba “Thưa Bà này là con Bà”.

Ngoài giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa yêu thương của những câu nói đó, chúng ta hãy còn chú ý đến thứ tự của chúng: câu thứ nhất “Lạy Cha…” là nói đến những kẻ thù ghét Ngài; câu thứ hai “Ngay hôm nay…” là nói với người tội lỗi, tên trộm bên cạnh Ngài; câu thứ ba “Thưa Bà…” là nói với Ðức Mẹ, một người thánh thiện. Nghĩa là: cho đến phút sắp chết, tình thương của Ðức Giêsu vẫn bao la, và còn bao la hơn bao giờ hết. Tình thương đó dành cho ai? Trước hết là cho kẻ thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là Ðức Giêsu là như thế là do căn cứ vào những lời nói cuối cùng của Ngài trước lúc chết.

Hôm nay chúng ta đã thấy Ðức Giêsu trong khi chết đã tỏ lòng yêu thương trước nhất không phải là đối với Mẹ Ngài, cũng không phải là đối với các môn đệ của Ngài, mà là những kẻ thù ghét Ngài. Vậy chúng ta hãy cố gắng noi gương Chúa. Hãy tha thứ cho nhau và hãy sống hoà thuận lại với nhau.

Hạng người thứ hai được Ðức Giêsu yêu thương nhớ đến trong lúc hấp hối là những người tội lỗi. Chúa không bao giờ ghét người tội lỗi, không bao giờ ruồng bỏ người tội lỗi, nhưng Chúa rất thương người tội lỗi. Nếu biết rằng chính chúng ta là những người tội lỗi thì chúng ta phải cảm động biết bao. Và nếu có ai đó khi nào ngã lòng vì cho rằng tội mình quá nặng hay tội mình quá nhiều, thì người ấy hãy nhớ lại tấm lòng của Ðức Giêsu trong những phút giây trước khi Ngài chết.

Còn nếu chúng ta cho rằng mình thánh thiện, hoặc có thiện chí muốn trở thành thánh thiện, thì chúng ta hãy cố gắng bắt chước gương thánh thiện của Chúa chúng ta, là hãy hết lòng yêu thương những kẻ thù ghét mình và cũng hết lòng yêu thương những người tội lỗi.

Tâm trạng của Baraba

Bài tường thuật cuộc thụ nạn của Ðức Giêsu tuy đã dài mà vẫn chưa đủ, vì chưa mô tả tâm trạng của những người tham dự vào cuộc xử án Ðức Giêsu. Và bây giờ chúng ta hãy đi vào tâm trạng của một trong những người đó, Baraba.

Sáng Thứ Sáu, Baraba đang ngồi trong từ thì cửa tù mở ra, viên cai ngục bước vào gọi Baraba đi ra. Baraba giật mình sợ hãi vì tin chắc người ta sẽ dẫn mình đi xử tử. Hắn là một tên cướp của giết người mà tử hình là điều chắc. Nhưng người ta không dẫn hắn ra pháp trường, mà lại đến dinh Philatô, ở đó đã có sẵn một người tù khác đang bị trói, thân thể tả tơi vì bị tra tấn. Philatô ra lệnh đưa cả hai ra trước công chúng và hỏi: Trong hai người này: Một là Giêsu, hai là Baraba, các người muốn ta tha ai? Baraba cảm thấy nhẹ nhỏm; thì ra người ta dẫn hắn đi không phải để giết mà để hỏi ý dân có muốn tha cho hắn không? Tuy nhiên chỉ nhẹ nhỏm trong phút chốc thôi, Baraba lại lo sợ: thế nào dân chúng cũng đòi tha người kia đồng thời đòi giết hắn: tội hắn quá rõ và quá lớn mà. Thế nhưng Baraba không tin vào tai mình khi nghe dân gào ta: Hãy tha cho Baraba và đóng đinh Giêsu. Ðến khi Philatô hỏi lại lần thứ hai và dân chúng lại kêu gào lần thư hai y như lần trước thì Baraba mới tin đó là sự thật. Người ta mở trói hắn và dẫn Giêsu đi. Hắn bước xuống đi về phía đám dân, tưởng rằng người ta sẽ chào đón hoan hô hắn, vì người ta đã thương hắn và xin tha cho hắn mà. Nhưng lạ thay chẳng ai còn quan tâm tới hắn nữa, người ta vẫn còn mãi mê gào thét đòi giết Giêsu. Khi đó hắn hiểu ra mình không phải dân chúng yêu thương gì hắn, mà chỉ vì dân chúng đang thù ghét Giêsu. Baraba đi theo đám đông áp tải Giêsu đi đến pháp trường. Giêsu là ai vậy? Chắc là một tên tội phạm còn hung ác hơn hắn nhiều nên mới bị thù ghét như vậy. Khi người ta đã đóng đinh Giêsu xong trên lên thập giá, hắn mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt của người đã chết thay cho mình: chẳng có gì là hung ác, chẳng một lời nguyền rủa những kẻ hành hạ mình. Hai bên Giêsu, Baraba nhận ra mặt của hai tên đã từng ở tù chung với hắn. Tương truyền tên của hai người này Dicma và Ghetta. Ghetta thì luôn mồm chửi rủa, chửi lý hình, chửi dân chúng và chửi luôn Giêsu. Nhưng Giêsu cũng vẫn im lặng. Còn Ðicma thì nói với đồng nghiệp: Mình bị như vậy là đáng tội rồi, còn ông này có làm chi nên tội đâu. Baraba hiểu thêm ý chi tiết nữa: Giêsu là người vô tội bị kết ách oan. Ðicma lại quay sang Giêsu và nói: Thưa Ngài, khi Ngài lên trời, xin cho tôi được đi theo. Và Giêsu đáp: Tôi hứa với anh ngay hôm nay anh sẽ lên thiên đường với tôi. Vậy nghĩa là Giêsu lại cứu thêm một người nữa, không phải chỉ một mình Baraba mà cả tên Ðicma đầu trộm đuôi cướp kia. Baraba còn đang suy nghĩ về lòng nhân ái của Giêsu thì nghe Giêsu kêu lớn: Lạy Cha, xin Cha tha cho họ. Baraba lại càng ngạc nhiên hơn nữa: Giêsu chẳng những cứu hắn, cứu Ðicma, mà còn muốn cứu tất cả những người đã lớn tiếng gào thét giết Ngài. Rồi Giêsu lại kêu lớn: Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha. Và Ngài gục đầu tắt thở. Bấy giờ tên đại đội trưởng lên tiếng: Ðúng thật người này là Con Thiên Chúa. Baraba thầm nghĩ: Ðúng vậy, chỉ có Con Thiên Chúa mới có được một tấm lòng như vậy. Baraba rời đồi Golgotha, vừa đi vừa tiếp tục suy nghĩ. Tương truyền rằng kể từ đó Baraba hoán cải, không còn trộm cướp nữa mà trở nên một người lương thiện.

Chúng ta có thể đoán rằng, trong dòng suy tư của mình, Baraba đã suy nghĩ rất nhiều về Luật:

. Trước hết là luật công bình: theo luật này thì cả hắn, cả Ðicma và Ghetta nữa đều phải bị xử tử vì cả 3 đều là những tên cướp của giết người. Nhưng hôm nay luật này đã không được thực hiện.

. Kế đến là luật rừng, luật bị thúc đẩy bởi lòng thù ghét muốn loại bỏ người mình không ưa. Ðức Giêsu đã bị xử tử vì thứ luật rừng.

. Nhưng khám phá lớn nhất của Baraba là luật tình thương. Luật Giêsu đã thực hiện: do luật tình thương này mà Ðức Giêsu cam lòng chịu chết nhưng cũng nhờ luật này mà Baraba được thả, Ðicma được lên thiên đường và những kẻ thù của Ðức Giêsu được tha thứ. Luật tình thương này đã mở mắt mở lòng viên đại đội trưởng và hoán cải tâm hồn Baraba.

Tối thứ Năm trước khi bước vào cuộc thụ nạn, Ðức Giêsu đã nói với các môn đệ “Thầy ban cho chúng con một điều luật mới, là chúng con hãy thương yêu nhau. Không có tình thương nào cao cả cho bằng tình của người dám thí mạng sống vì người mình thương. Và Ðức Giêsu là người đầu tiên thực hiện điều luật đó. Không nên sống theo luật rừng, không chỉ bằng lòng sống theo luật công bình, mà người môn đệ Chúa còn phải biết sống theo luật tình thương.

Chúng ta là môn đệ của Ðức Giêsu. Chúng ta phải noi gương Ngài sống luật tình thương.

KINH LẠY CHA

Trong những giây phút đau đớn nhất và buồn phiền nhất, Chúa Giêsu đã hướng về Chúa Cha và tha thiết cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu và cầu nguyện với Chúa Cha bằng lời kinh do chính Ngài dạy.

GIẢI TÁN

(Dùng “Lời nguyện trên dân chúng” trong Sách Lễ Rôma) [Mục Lục]

2. THÔNG ĐIỆP TỪ THẬP GIÁ- Lm. Thiện Duy

Kính thưa… Chúng ta vừa đi trên con đường thương khó của Đức Giêsu Kitô theo trình thuật của thánh Gioan. Vì nó dài quá nên chúng ta không thể để ý đến tất cả những chi tiết trong cuộc thương khó của Chúa. Vả lại có những chi tiết mà quyển Tin Mừng này viết, còn quyển kia thì không. Ví dụ chi tiết hai tên trộm cướp cùng bị đóng đinh với CG thì chỉ có một mình Luca tường thuật rõ ràng, còn 3 tác giả kia thì không hoặc chỉ nhắc đến thôi. Tuy nhiên đây là hình ảnh đánh động tôi nhiều vì trong mùa chay năm nay tôi có dịp đọc lại quyển sách “Trên Đỉnh Cao Thập Giá” của ĐHY. Fullton Sheen, và vì nó nằm trong chủ đề sứ điệp mùa chay năm 2012 của ĐGH Ben. XVI, mời gọi chúng ta hãy quan tâm đến nhau, đặc biệt là sửa lỗi cho nhau. Mà muốn sửa lỗi cho nhau thì đòi hỏi mọi người phải nhận biết mình là người tội lỗi, mình cần được sửa lỗi chứ không phải chỉ người khác mới tội lỗi và cần được sửa lỗi.

Có hai con đường đưa người ta đến với Chúa, một là con đường thánh thiện, hai là con đường tội lỗi. Có những người đến với Chúa khi là người nhân đức, ví dụ Đức Maria “đầy ơn phúc”; thánh cả Giuse, “đấng công chính”; Nathanael, “người không gian dối”… Nhưng cũng có những người đến với Chúa khi là người xấu xa, ví dụ Mađalêna, cô gái điếm; Matthêu, người thu thuế; hay tên trộm, cùng chịu đóng đinh với Chúa trên thập giá hôm nay.

“Ngài bị liệt vào những kẻ hung ác” (Lc 22,37)

Với cái nhìn bình thường, người ta thường tự hào khi được quen biết với những bậc cao sang vị vọng. Vì vậy họ thường hay ghép mình vào những mối quan hệ đó. Được chụp hình chung với các ngôi sao. Được bắt tay với thủ tướng. Được đi uống nước, ăn cơm với những người nổi tiếng… Còn Thiên Chúa, khi đã trao nộp con mình, tại sao Ngài không để cho Con mình bị án tử hình chung với những người tù chính trị, hay ít ra là những người khét tiếng như Năm Cam chẳng hạn để được nở mày nở mặt một chút? mà Ngài lại để cho Con của mình bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp? 700 năm trước, tiên tri Isaia đã nói tiên tri về việc Chúa bị liệt vào những kẻ bất lương, còn thánh Luca thì cho biết: “Ngài bị liệt vào hàng những kẻ hung ác” (Lc 22, 37). Thực vậy, khi đến trần gian này, CG đã đồng bàn với những kẻ tội lỗi, bạn bè với quân thu thuế. Người ta nói: “Hãy cho tôi biết bạn bè của anh là ai, tôi sẽ nói cho anh hay anh là người như thế nào”. Điều này không thể áp dụng cho CG, vì Ngài là Thiên Chúa nhưng ở giữa bọn đạo tặc; Đấng Cứu Thế nhưng ở giữa những người tội lỗi. Điều đó cho chúng ta thấy: cái làm cho chúng ta nên cao cả không hệ tại chúng ta là gì, mà hệ tại ơn thánh Ngài ban cho ta.

Tại sao người tội lỗi được tha thứ?

Tại sao tên trộm được ơn cứu độ ngay trên thập giá, hay nói ví von theo lời của ĐHY. Fullton Sheen là “Tên trộm này đến chết vẫn còn hành nghề đạo chích, vì đến lúc chết, còn ăn trộm được thiên đàng”? Mặt khác, tại sao CG lại nói với những người biệt phái và Pharisêu: “Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào thiên đàng trước các ông”? Tại sao CG lại gọi những người được xem là đạo đức thánh thiện bằng những danh từ: “Nòi rắn độc”, “Mồ mả tô vôi”? Tại sao Chúa lại dùng những lời lẽ cứng rắn với họ như vậy, trong khi lại từ tốn, nhẹ nhàng, êm dịu đối với người phụ nữ có 5 đời chồng, với tên thu thuế Matthêu và người trộm lành hôm nay?

Thưa vì những người tội lỗi có nhiều khả năng ăn năn trở lại hơn những người tự mãn về chính mình.Vì cái trống rỗng của tâm hồn tự nó là cơ hội để tiếp nhận lòng thương xót của Chúa; và sự chán chường về chính bản thân của mình là bước đầu của sự ăn năn hối cải, vì chán chường là dấu chỉ tính kiêu ngạo đã bị chết. Người ta sẽ trở về với Chúa không phải vì họ đạo đức, mà vì họ biết mình tội lỗi.

Mất ý thức về tội

Nếu người ta ý thức mình tội lỗi thì người ta sẽ dễ quay trở lại và được ơn tha thứ. Chúa chờ đợi điều đó! Nhưng điều đáng nói là có những người không ý thức về tội lỗi của mình, nên họ không thấy cần phải quay trở lại với Chúa, vì vậy mà họ không thể được ơn tha thứ. Có một tác giả nói rằng: “Ở trần gian này có một điều xấu xa hơn tội, đó là không công nhận tình trạng tội lỗi của mình”. Chúng ta không còn xa lạ gì với kiểu nói của những người khi chúng ta khuyên họ đi xưng tội, họ nói tội gì đâu mà xưng; hay bảo họ giao hòa với Chúa, họ nói tôi có làm gì phiền Chúa đâu, tôi để Chúa yên, tại sao Chúa không để tôi yên? Tại sao họ lại nói như vậy? Thưa bởi vì họ đã tự coi mình là chúa, thì kêu họ đi giao hòa với Chúa, điều đó thật là ngớ ngẩn. Cũng giống như những người bệnh đến mê sảng, thì họ sẽ dần dần mất ý thức về căn bệnh của mình. Khi nào người ta không còn tin mình luôn tốt lành thánh thiện, và bắt đầu công nhận sự tệ hại, xấu xa của mình, là lúc người ta bước vào con đường của người trộm lành để hối cải. Cũng như khi biết mình bị bệnh người ta mới đi chữa trị.

Nói tóm lại, Đức Giêsu Kitô đã tự liệt mình vào hàng tội nhân để nâng tội nhân lên làm thánh nhân, nhưng với điều kiện là họ phải ý thức thân phận tội lỗi của mình để được Chúa cứu. Điều đó đã được một trong hai tên trộm bị đóng đinh bên cạnh Chúa thực hiện, vì vậy mà Chúa Giêsu đã nói: “Ngay hôm nay, ngươi sẽ được ở trên thiên đàng với Ta”.

Thông điệp từ thập giá

Ý thức được điều đó, chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận thân phận yếu đuối, tội lỗi của mình để quay trở về với Chúa. Đừng kiêu ngạo mà cho rằng mình không làm gì sai trái nên không cần phải ăn năn sám hối. Thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Thánh Giá để thấy được tội lỗi của nhân loại và của từng người chúng ta. Nhưng đừng dừng lại ở Thánh Giá mà từ Thánh Giá hãy bước đến tòa giải tội, vì đó là thông điệp từ thập giá: “Người đã bị liệt vào hàng tội lỗi” để đồng cảm và tha thứ cho họ. Sống BTGT không chỉ đơn thuần là việc đi xưng tội, mà hơn thế nữa là có những giây phút để nhìn lại một ngày sống của mình, những điều mình đã hành xử với anh chị em, với những người xung quanh; hoặc sự giả dối của chính bản thân mình, có thể che mắt người khác chứ không thể che được cái nhìn của Chúa. Sống BTGT còn là biết đón nhận những lời góp ý chân thành của người khác, đôi khi đụng chạm đến tự ái của chúng ta… Đó là thông điệp từ thập giá mà CG muốn gởi đến chúng ta trong ngày hôm nay, khi Ngài chấp nhận chịu đóng đinh giữa hai người trộm cướp. Đó cũng là tất cả tâm tình của tôi muốn chia sẻ với anh chị em trong ngày thứ sáu hôm nay, nhất là những người tội lỗi, vì anh chị em và cả tôi nữa là những người được Chúa yêu thương.

Xin ơn Chúa giúp qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, thánh cả Giuse cho chúng ta ý thức được thân phận yếu đuối tội lỗi của mình để luôn biết sống khiêm tốn hầu có thể “ăn trộm” được thiên đàng như người trộm lành hôm nay. [Mục Lục]

3. VÌ YÊU, NGÀI ĐÃ CHẾT TRÊN THẬP GIÁ ĐỀ CHÚNG TA ĐƯỢC SỐNG- Dom. Lê Đức Thiện, OP

“Ngài vẫn yêu thương và yêu thương đến cùng” (Ga 13,1)

Trong cuộc sống của con người, không ai có thể sống mà không yêu, và cũng chẳng có niềm vui nào, hạnh phúc nào sánh được với niềm vui, niềm hạnh phúc vì được yêu. Tuy nhiên, dù niềm vui nơi tình yêu là tuyệt đối duy nhất, nhưng nó lại không thể không có khổ đau. Vì yêu chính là chết đi với mình, là khước từ sống trong mình, cho mình và nhờ mình, nhưng là sống cho người mình yêu và sống nhờ người mình yêu. Đó là sự đón nhận và cho đi. Vì vậy, có thể nói rằng : sống, là yêu, mà tận cùng của tình yêu cũng chính là chết đi cho người mình yêu.

Đó chính là điều mà Đức Giêsu đã dạy chúng ta : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13) ; và đó cũng là điều mà Đức Giêsu đã thực hiện khi Ngài gánh chịu mọi khổ đau để rồi chết trên cây thập giá hầu ban ơn cứu độ cho chúng ta. Đó là một hành trình của tình yêu, mà Đức Giêsu, qua cuộc thương khó của mình, Ngài dẫn đưa chúng ta tiến tới sự sống và hạnh phúc muôn đời.

Thật vậy, khi chấp nhận mang lấy những khổ đau và nhục nhã của cái chết nơi thập giá, Đức Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để, từ đó, sự sống mới phát sinh, như Thánh Phaolô nói : “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Điều này có nghĩa là : Đức Giêsu Kitô, khi tự hạ làm nô lệ, khi tự để mình bị trói buộc trong cuộc khổ nạn và từ bỏ chính mạng sống của mình, chính lúc ấy, Ngài đã thể hiện một tình yêu vẹn toàn, một tình yêu đi đến tận cùng của tình yêu, là cái chết. Nhờ đó, sự sống đời đời xuất hiện cho chúng ta. Đó chính là con đường nối kết giữa sự chết và sự sống : chấp nhận khổ đau và chết vì yêu thương sẽ mở ra con đường dẫn đến sự sống muôn đời.

Tự bản chất, đau khổ không mang một giá trị nào, nhưng Đức Giêsu đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng : chính tình yêu sẽ mang đến cho đau khổ một ý nghĩa, một giá trị cứu độ. Bởi vì yêu thương chúng ta mà Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, chấp nhận cả cái chết để chúng ta được sống. Ngài đã ban cho cuộc sống của chúng ta một ý nghĩa, một niềm hy vọng. Chính từ trái tim bị đâm thâu của Ngài mà ân sủng được ban tặng và ơn cứu độ đến với chúng ta.

Nhìn lên thập giá, chúng ta được mời gọi hãy chết đi cho tội lỗi, và sống lại trong ân sủng ; hãy vượt qua mọi dụcvọng đam mê và điều khiển lý trí của mình theo như ý Chúa, như Thánh Phaolô đã nêu gương cho chúng ta : “Tôi chịu đóng đinh vào thập giá với Chúa Kitô, nên tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy dạy chúng con trở thành những người môn đệ chân chính của Chúa, biết quên đi cái tôi của mình và ngày càng liên kết với mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa hơn, để chúng con cũng biết yêu thương như Chúa đã yêu, mà trước hết là biết yêu thương và hy sinh cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè,… và sau đó là xa hơn nữa, cho cả những người ghét và làm hại chúng con nữa như khi xưa Chúa đã dạy chúng con : “Còn Thầy, Thầy bảo anh em : hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). [Mục Lục]

4. THẬP GIÁ, SỨ ĐIỆP CỦA TÌNH YÊU- Văn Tịnh, OP

Cách đây hơn hai ngàn năm, vào một buổi chiều ngày thứ sáu, ba cây thập giá được dựng lên trên đỉnh đồi Calvario – một ngọn đồi nằm ở ngoại ô phía Tây Bắc thành phố Giêrusalem, thủ đô nước Palestin. Trên ba cây thập giá ấy người ta treo ba người bị kết án tử hình. Hai trong ba tử tội cùng chung một tội danh: trộm cắp. Người còn lại – kẻ bị treo ở chính giữa – thật khó mà định được tội trạng. Đối với người Do thái thì đó là một phạm nhân chính trị, tự xưng mình là vua, lại rao truyền một thứ giáo lý mới lạ…. Song, đối với những “kẻ được tuyển chọn” (1 Cr 1,24) thì đó chính là Đấng Cứu Thế. Ngài bị treo trên thập giá để giải thoát muôn dân khỏi tội luỵ và sự chết. Đấng ấy chính là Đức Giêsu Kitô – Ngôi Hai Thiên Chúa.

Thánh Phaolô đã rao giảng về Đấng chịu sát tế cứu độ muôn dân như một cương lĩnh hào hùng: “tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh” (1 Cr 2,2). Sau biến cố trên đường đi Damasco, Phaolô đã nhận ra từ tận căn thập giá là sự chiến thắng vinh hiển, và rao giảng về thập giá là một sự hãnh diện, đến nỗi “Niềm vinh dự của tôi là thập giá Đức Kitô” (xc.Gl 6,14).

Thập giá, xét như một phương thế, là một thứ nghịch thường, người ta chỉ dùng để xử tử kẻ phạm tội. Người Do thái, thời Đức Giêsu, quan niệm rằng án treo trên thập giá là cái chết “ô nhục” (Dt 12,2) và “đáng nguyền rủa” (Gl 13,3) dành cho tử tội. Thế nhưng, Thiên Chúa đã chọn cái chết ấy cho Con của Ngài để biểu lộ tình yêu đối với thế gian.[1] Chính vì lẽ đó, thập giá đã trở nên khác thường, nó không còn là nghịch cảnh của những án treo, nó trở thành sứ điệp của tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại.

Thập giá – kế hoạch cứu rỗi

Sau khi tạo dựng nên bầu trời thăm thẳm và địa cầu xinh tươi, Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài (St 1,27) và cho con người sống trong một khuôn viên xinh đẹp và lộng lẫy. Thế nhưng, bằng một cách thức huyền bí nào đó, ác quỷ đột nhập vào địa cầu làm cho hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người bị biến dạng và trở nên tàn tạ. Từ đó tội lỗi và sự chết thống trị con người (xc. Rm 5,12-14).

Vì lòng thương xót vô biên, Thiên Chúa quyết định làm cho con người trở lại dáng vẻ tráng lệ và thiện hảo ban đầu. Ngài không phái một đạo binh thiên thần trên Thiên quoc xuống trần gian để tiêu diệt tà thần và ác quỷ – căn nguyên gây ra cám dỗ, nhưng dùng sự chết để tiêu diệt tội lỗi và sự chết do tội lỗi gây lên.

Thập giá, chúng ta đã nói ở trên, là một yếu tố thất bại thảm khốc nhất (xc. 1Cr 1,23; Đnl 21,23) Thiên Chúa đã tận dụng cách triệt để để hoàn tất công việc cứu chuộc con người. Đồng thời, thập giá còn cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa vượt lên trên mọi suy tưởng và sự yếu đuối của con người.

Thập giá không loại trừ run sợ

Trong lá thư 2 Cr 10-13 được viết bằng cảm xúc dạt dào, thánh Phaolô một mặt cho thấy sự đau khổ của sứ vụ tông đồ của ngài, mặt khác trưng ra sự yếu hèn trong thân phận làm người được bù đắp bởi sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa. Thập giá biểu hiện rõ ràng trong cách nhìn này: “khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Sau đó, thánh nhân liên kết với sự yếu đuối của Đức Kitô: “Người đã bị đóng đinh trong sự yếu đuối của mình ” (2 Cr 13,4)

Thật thế, tình yêu không cất đi sự run sợ, nó mang lại cho run sợ một ý nghĩa. Hình ảnh Đức Giêsu thao thức, lo buồn và cầu nguyện suốt đêm trong vườn Gethsemane nói lên sự run sợ tột đỉnh trước thập giá. Người quỵ xuống đất mà cầu xin cho giờ ấy rời khỏi mình: “Cha ơi! … xin cho con khỏi uống chén này” (Mc 14,36). Thế nhưng, hình ảnh đó không bị phó mặc cho sự yếu đuối của bản tính làm người nơi Đức Giêsu mà trao phó cho ý muốn của Chúa Cha. Người Con biết rằng, để ý Cha nên trọn thì đồng nghĩa với việc chấp nhận cho người ta treo lên thập giá và giết đi. Run sợ trở nên ý nghĩa khi Đức Giêsu từ chối bản thân mình và vâng phục hoàn toàn theo thánh ý Thiên Chúa “xin đừng theo ý con, một theo ý Cha” (Mc 14,36).

Thánh Phaolô đã nhắc lại lời của tiên tri Isaia trong Pl 2, 6-11: Đức Kitô trở thành đầy tớ và đã hạ mình vâng phục để thi hành sứ mạng. Như vậy, cái chết của Đức Kitô có ý nghĩa vì “vâng phục” chứ không phải là vì hệ quả của kẻ kết án.

Tuy nhiên, chiến thắng của thập giá không phải là sự chiến thắng bằng võ lực, nhưng là cách thức vượt qua run sợ và đau thương.

Thập giá – một thực tại đau khổ

Đau khổ là một thực tại hiện sinh mà con người không thể tránh khỏi trong cuộc đời của mình. Có khi đau khổ là một cuộc sống cùng cực, bất hạnh hay xa cách, cũng có khi là thương vong. Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, mặc lấy thân phận của kiếp phàm nhân, cũng không đi ra ngoài thực tại ấy của kiếp người.

Xét trên phương diện tinh thần, đau thương của thập giá, tiên vàn là sự sỉ nhục mang tính trần tục. Thập giá, theo lẽ thường, là cái giá hình chữ thập người ta dùng để đóng đinh kẻ phạm pháp. Đối với người Roma, hình phạt ấy bất xứng với ngay cả công dân đáng khinh bỉ nhất của họ. Như thế, Đức Giêsu đã bị liệt vào hàng ngũ tội nhân bất xứng. Ngài chịu đóng đinh cùng với hai tên trộm cắp. Ngài không phạm tội nhưng chúng ta phạm tội. Định mệnh của Đức Giêsu chính là định mệnh của con người: “Vì tội lỗi mà sự chết xâm nhập thế gian” (Rm 5,12), nhưng cũng vì thế gian mà Ngài bị trao nộp (xc. 1Cr 15,3), bị khinh khi, ruồng rẫy, bị lột trần trước bàn dân thiên hạ.

Thứ đến, đó là sự cô đơn. Trên thập giá, Đức Giêsu như rơi xuống tột cùng của sự tuyệt vọng, cuộc sống xung quanh toàn là mầu xám thê lương. Không ai dám lên tiếng bảo vệ cho Ngài. Đức Maria, thánh Gioan và những người theo Chúa chỉ biết lặng mình để nhìn người ta treo Đức Giêsu lên thập giá. Các môn đệ khác chạy trốn vì sợ hãi. Người Cha cũng không can thiệp mà để mặc cho người ta dày xéo thân xác con Ngài. Dưới chân thập giá toàn là mũi đòng và lính tráng. Người ta còn chửi rủa và phỉ nhổ kẻ bị đóng đinh. Không có nỗi cô đơn nào lớn hơn. Đức Giêsu phải thốt lên rằng: Ê-li Ê-li, lê-ma xa-bac-tha-ni “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?” (Mt 27,46).

Trên bình diện thể lý, đau thương của thập giá là những roi đòn lằn trên thân xác Đức Giêsu. Vẻ đẹp của Ngài bị biến dạng và tàn tạ bởi sự hành hạ và dày xéo của những tên lính độc ác. Thay vì đội vương miệng cho vị vua, chúng đội lên đầu Chúa một vòng gai, rồi lại còn cho Ngài uống dấm chua mật đắng. Hành động này không phải là để cho Chúa nhanh chóng đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng là để kéo dài cơn đau đớn của Ngài, làm cho Chúa phải gặm nhấm thời khắc của sự đau đớn tột cùng.

Thánh Phaolô loan báo về Đức Giêsu luôn là Đấng đã bị đóng đinh như vậy. Sự “vấp phạm” và “điên dại” của thập giá là sự kiện ở nơi xem ra chỉ có sự sỉ nhục, cô đơn, đau đớn và thua cuộc, thì chính nơi đó lại là sự thể hiện quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa. Đối với người Do thái, thập giá ngăn cản lòng tin của tín hữu đạo đức, không tìm thấy gì giống như thế trong Kinh thánh và nó đi ngược lại với bản thể của Thiên Chúa là Đấng tỏ hiện ra với các điềm thiêng dấu lạ. Như thế, chấp nhận thập giá của Chúa Kitô có nghĩa là hoán cải sâu đậm trong liên hệ với Thiên Chúa, là từ khước lòng trung tín với Thiên Chúa của cha ông họ. Hơn nữa, việc Đức Giêsu chịu chết trên thập giá thực sự là chuyện ô nhục và tồi tệ trước mặt họ. Với Do thái, thập giá là skandalos nghĩa là “bẫy sập” hay “hòn đá gây vấp ngã”; và tử thi tự nó đã là vật ô uế rồi, lại bị phơi bày giữa trời nữa thì quả là đồ bị Chúa ruồng bỏ (xc. Gl 3.13). Với Hy lạp, tiêu chuẩn phán đoán chống lại thập giá là lý trí. Họ gọi thập giá là moria nghĩa là “sự điên dại”, dịch sát nghĩa là “nhạt nhẽo”, “vô vị”. Vì thế, hơn là một sai lầm, nó là sự phỉ báng lương tri con người hay là “sự điên rồ” (1Cr 1,23). Nhưng, thánh Phaolô chấp nhận cả hai cách phản ứng hợp lý đó và dùng nó làm lập luận nghịch lý để trình bày kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, Đấng đã dùng thập giá để biểu lộ tình yêu đối với thế gian và nhờ Con của Người mà thế gian được cứu độ.

Thập giá minh chứng tình yêu

Tội nguyên tổ đã phá đổ căn bản mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Hệ lụy của nó lưu truyền cho hậu thế và làm cho sự chết thống trị con người. Nhưng vì lòng thương xót, Thiên Chúa không để con người phải chết trong đau khổ. Ngài ban Con Một cho trần thế hầu thực hiện chương trình cứu rỗi. Cái chết thê thảm của Đức Giêsu được mô tả trên đây là cùng đích của chương trình ấy.

Thế nhưng, tại sao Đức Giêsu phải chết? Nếu như con người phạm tội bất tuân đối với Thiên Chúa thì chỉ cần Ngài nói lời tha tội cho con người thì tội lỗi sẽ được tha, hay nói một cách hình ảnh, Thiên Chúa chỉ cần rỏ một giọt nước xuống trần gian thì muôn vàn tội lỗi của con người sẽ được rửa sạch mà không cần đến thập giá; hay là do nguyên tổ đã phạm tội quá lớn đến nỗi phải cần đến sự tiêu hủy của Con Một Thiên Chúa mới có thể đền đáp được? Không! Thưa rằng, cái chết của Đức Giêsu trên thập giá là một minh chứng cho tình yêu tột đỉnh của Đức Chúa Cha đối với con người.

Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu là một cuộc chiến mà chúng ta là căn điểm. Người không phạm tội nhưng chúng ta phạm tội. Người mang lấy tội luỵ của nhân gian để chịu đóng đinh trên thập giá. Cuộc chiến đó không phải với năm cục đá Đavít đã dùng để giết Goliat nhưng bằng năm vết thương ghê gớm nơi chân tay và cạnh sườn. Cuộc chiến giữa một bên là vũ khí lấp loáng, một bên là kẻ bị treo trên thập giá với những giọt máu rỉ rả rơi xuống đến giọt cuối cùng. Nhưng thật lạ lùng, trong cuộc chiến này, kẻ mạng vong lại thắng cuộc.

Đức Giêsu đã vì vâng phục Chúa Cha mà chấp nhận cái chết (xc. Pl 2,6-11), nhưng Thiên Chúa đã cho Người phục sinh vào ngày thứ ba sau khi khi chịu chết. Nhờ cái chết của Đấng chịu đóng đinh mà tội lỗi của con người bị tiêu diệt và nhờ sự phục sinh vinh hiển của Người mà thế gian được sống lại. Cũng nhờ sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu mà có sự giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người (Rm 5, 10-11), giữa Do thái và dân ngoại (xc. Cl 1,20).

Để kết

Thập giá, tự bản chất, là yêu thương và tha thứ. Vì yêu thương nhân loại mà Con Thiên Chúa phải chết treo trên thập giá, nhưng cũng vì sự chết của Đấng bị treo mà tội lỗi của con người được tha thứ. Tình yêu cốt ở tính biện chứng này của thập giá. Chúng ta được giải án tuyên công cách nhưng không bởi ân nghĩa của thập giá, nhờ công nghiệp trong Đức Kitô (xc. Rm 3, 24-25). Trong tư tưởng của thánh Phaolô, “Hy tế đền tội” có chiều kích thiêng liêng sâu xa. Cái chết có giá trị đền tội, không phải là vì cái chết đẫm máu, nhưng là vì hành vi yêu thương và vâng phục. (Pl 2, 6-11).

Thập giá, một khi Thiên Chúa dùng làm phương thế để cứu rỗi con người thì nó không còn là nghịch cảnh của những kẻ bị treo nữa, nó trở thành sứ điệp cứu rỗi nhân loại. Cái chết của Đức Kitô có tác động làm biến đổi linh hồn con người từ trạng thái tội lỗi sang trạng thái thuần khiết và được giải phóng khỏi tù ngục vây hãm. Từ đó con người như được sinh ra lại trong ơn nghĩa với Thiên Chúa. Ngay lúc trên thập giá, Đức Kitô đã hứa với một trong hai tên trộm: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).

Như vậy, qua thập giá của Đức Kitô, chúng ta được chia sẻ vào sự chết với Người. Cái chết của chúng ta, thực sự, là sự khởi đầu cho một cuộc sống vĩnh cửu. Lời của triết gia Trung Quốc cổ đại Lão tử đến đây mới được “ứng nghiệm”: Sinh giã tử chi đồ, tử giã sinh chi thuỷ. Vẻ đẹp của con người được phục hồi hoàn toàn nhưng không phải là cuộc sống trần tục mà là sự sống viên mãn trên Thiên Quốc cũng như vẻ đẹp sơ nguyên của nó. Ađam và Eva được tạo dựng và được sống trong địa đàng của Thiên Chúa như thế nào thì linh hồn con người cũng được sung hưởng sự sống như vậy trong Thiên Quốc.

Tuy nhiên, thập giá không phải chỉ mang “giá trị Nước Trời”, nó còn là một thực tại nhắm đến con người được bắt gặp trong những biến cố cụ thể. Sau sự kiện 11-9, người ta tìm thấy một thanh sắt hình cây thập giá trong đống đổ nát của tòa nhà Trung tâm Thương mại thế giới. Sau đó, cây thập giá này được sử dụng trong các thánh lễ và các buổi cầu nguyện cho những người xấu số và cả những người làm việc ở đó.[2] Phải chăng giữa cảnh chết chóc và hận thù, người ta dùng cây thập giá để mời gọi yêu thương và tha thứ? để hy vọng khi tuyệt vọng? Và, phải chăng sự hiện diện âm thầm của cây thập giá là lời nhắc nhở thâm thúy về những giới hạn tất nhiên của con người cũng như chính cuộc đời?

Thánh Phaolô thống nhất ba yếu tố đó trong toàn bộ sứ vụ rao giảng Tin Mừng của ngài, và tựu trung trong Một ý nghĩa cao cả nhất đó là: SỨ ĐIỆP CỦA TÌNH YÊU.

[1] Hội đồng giám mục Đức, Tài liệu học hỏi năm thánh Phaolô, Tôn giáo, 2008, tr23.

[2]Xc. Nguyễn Thái Hợp, Chút này làm tin, Văn hóa Sài Gòn, tr. 11-12. [Mục Lục]

5. SUY TÔN THÁNH GIÁ CHÚA- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC

Thưa anh chị em,

Khi chúng ta suy niệm cuộc thương khó của Chúa, chúng ta sẽ khám phá có những điểm mâu thuẫn.

Khi đám đông dân chúng cứ đồng thanh la giết đi, giết đi, đóng đinh nó vào thập giá một cách mẽ, dữ tợn, thì bên cạnh đó lại có những phụ nữ đi theo Chúa để an ủi, để nâng đỡ Chúa.

Khi giới lãnh đạo Do Thái đã vu khống cho Chúa, họ cho rằng Chúa nói phạm thượng, dám xưng mình là Con Thiên Chúa, thì đối lại viên quan người Rôma lại xác tín: Đúng thực, Người này là Con Thiên Chúa.

Khi anh trộm dữ thách thức Chúa: nếu ông là Đức Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa, thì đối lại anh trộm lành lại nói: Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.

Hình ảnh các môn đệ hầu như bỏ Chúa chạy hết, trong khi đó Mẹ Maria và tông đồ Gioan đi theo Chúa đến cùng.

Khi suy tư về cuộc thương khó Chúa, có bao giờ chúng ta đặt ra câu hỏi: tại sao lại có những mâu thuẫn như thế?

Theo Từ Điển Tiếng Việt định nghĩa cho chúng ta: Nhìn chỉ là thấy, nhưng quan sát là vừa thấy vừa thấu hiểu.

Giới lãnh đạo Do thái, thậm chí các môn đệ chỉ thấy Chúa chết, nhưng họ không quan sát: tại sao Chúa chết? Trong khi đó, viên quan người Rôma, Đức Mẹ là những người quan sát thấy được tại sao Chúa chết. Chính khi quan sát như thế, mới khám phá, mới cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa.

Chiều hôm nay chúng ta cử hành nghi thức suy tôn Thánh giá Chúa. Qua đó, Giáo hội mời gọi chúng ta quan sát và tìm ra ý nghĩa giá trị lớn lao mầu nhiệm Thập giá của Chúa Giêsu.

– Nếu trước kia thập giá là hình phạt ô nhục dành cho tội nhân gian ác, thì hôm nay lại trở thành vinh dự và phần rỗi đời đời của chúng ta: “Vinh dự của chúng ta là Thập giá Đức Kitô”.

– Nếu thập giá đã từng là bóng hình của khổ đau, của sự chết, thì hôm nay qua Thập giá Chúa, cả nhân loại được vực dậy, được đem đến với nguồn sống bất diệt: “Khi nào Ta bị treo lên Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” .

– Nếu thập giá là dấu chỉ của sự hận thù, căm ghét, thì nay lại là biểu tượng của tình thương, của sự quảng đại và tha thứ: “Không có tình yêu nào cao quý và lớn lao hơn cho kẻ hiến mạng sống vì người mình yêu”.

– Nếu thập giá là đường dẫn đến đau thương mất mát, chán nản tuyệt vọng, thì hôm nay qua Đức Giêsu Kitô, Thập giá là đường dẫn đến hy vọng vinh quang niềm tin và ánh sáng: “Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng có ánh sáng đem lại sự sống ”.

Vì thế, việc theo chân Chúa đến chặng đường Thập giá không chỉ giúp ta đi sâu vào biến cố tử nạn đau thương của Chúa, để thấy được tình thương Chúa dành cho chúng ta, để nhận ra cái ác quả lớn lao của tội nơi mỗi người mà cảm thương Chúa, nhưng còn để hoán cải lòng chúng ta, và làm cho Thập giá trở thành phương tiện thánh hóa, đem lại ơn cứu độ cho mình và cho người khác.

Từ đây, Thập giá sẽ không chỉ đặt lên cao cho chúng ta bái kính tôn thờ, nhưng Thập giá còn là ánh sáng soi dẫn và giúp ta hoàn thành ơn gọi đời người môn đệ Chúa Kitô: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác Thánh giá mà theo Ta”.

Anh chị em thân mến,

Suy tôn Thánh Giá, để biết được ác tính của tội đã làm cho Chúa phải chết nhục nhã dường ấy.

Suy tôn Thánh Giá, để biết được vì ai mà con Đức Chúa Trời phải tan xương nát thịt như thế.

Và khi hôn kính Thánh Giá, xin cho chúng ta thực tâm trở về, chứ đừng cố tình xúc phạm đến Chúa nữa.

Thánh giá vẫn mãi mãi là biểu tượng của tình yêu. Thánh giá vẫn luôn là lời mời gọi để nhắc nhở cho con người về tên phản bội, kẻ tội lỗi, người vô ơn vẫn luôn tiềm ẩn trong mỗi người chúng ta.

Thánh giá vẫn luôn có đó, để mời gọi con người nhìn lên đây là bằng chứng tình yêu Thiên Chúa, khi Ngài hiến thân vì chúng ta. Nhưng dù cho tội lỗi đến đâu, thì tình yêu thương và lòng tha thứ của Chúa vẫn khỏa lấp được sự yếu hèn tội lỗi của con người.

Chúng ta hãy quan sát Thánh Giá Chúa cho kỹ, nhìn cho sâu, để thấu hiểu tình yêu Chúa cao vời biết bao. Cùng với lòng biết ơn, vì Chúa đã chết để cho chúng ta được sống. Xin cho chúng ta cố gắng sống đáp lại tình yêu thương ấy. Amen. [Mục Lục]

6. SUY NIỆM CUỘC KHỔ NẠN CHÚA GIÊSU- Lm. Dom. Đinh Viết Tiên, OP

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu có lúc con mỏi mệt và xao xuyến,

xin nhắc nhở con rằng

trong vườn Cây Dầu

Chúa buồn muốn chết được.

Nếu có lúc thấy bóng tối bủa vây,

Xin nhắc nhớ con rằng trên thập giá,

Chúa đã thốt lên : sao Cha bỏ con !

Trong Vườn Cây Dầu

Cùng với các Tông đồ theo Chúa vào vườn Cây Dầu

Đây là ba tông đồ được Đức Giêsu ưu đãi và được Người chọn để chứng kiến một vài biến cố quan trọng. Ví dụ : vụ Đức Giêsu cho đứa bé con ông Gia-ia sống lại (Mc 5,21-43), hoặc vụ Người đổi hình dạng trên núi (Mt 17,1-9).

Thường thường, Đức Giêsu đi xa dân chúng và môn đệ mà cầu nguyện. Nhưng hôm nay, khi đi cầu nguyện, Người lại đem các môn đệ theo, vì hoàn cảnh hôm nay rất là đặc biệt. Người muốn các môn đệ ấy chứng kiến cuộc giao tranh ác liệt cuối cùng của mình, chia sẻ và chấp nhận Thập giá với mình. Nếu không tất cả, thì ít ra là ba môn đệ đã hai lần được đặc ân chứng kiến quyền năng của Người, vì đã được chia ngọt sớt bùi, thì cũng phải chia cay sẻ đắng.

Trong tâm trạng buồn sầu

Đức Giêsu cảm thấy buồn rầu, xao xuyến, vì bỗng nhiên Người thấy mình phải đương đầu với cái chết đã đến nơi. Người mới để ba môn đệ ở lại, đi xa hơn một chút, sấp mình cầu nguyện.

Cử chỉ sấp mình, thoạt nghe, cũng hơi lạ, vì dân Do-thái đứng mà cầu nguyện, chứ không sấp mình. Thánh Luca lại nói : “Đức Giêsu qùy gối cầu nguyện”. Nhưng dân Do-thái cũng không quỳ. Ở đây, Đức Giêsu không đứng cầu nguyện, cũng không sấp mình, nhưng phải nói như thánh Mác-cô, là : Người ngã xuống đất và cầu nguyện.

Khỏi uống chén đắng này

Thánh Mác-cô viết : “Đức Giêsu ngã xuống đất và cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy”. Người nói : “Xin cho con khỏi uống chén (đắng) này”. Nhưng từ “giờ” nghĩa là gì ? Từ “giờ” có một nội dung đặc biệt trong Thánh Kinh, nhất là trong sách Tin Mừng theo thánh Gioan. Trong sách Tin Mừng thứ tư này, từ “giờ” có nghĩa là lúc Đức Giêsu phải chết trên Thập giá để cứu độ chúng ta. Đứng trước cái chết kinh khiếp sắp đến nơi, Đức Giêsu cảm thấy hãi hùng, xao xuyến, nên xin Chúa Cha cho mình khỏi phải qua giờ ấy.

Mt 26,39

Nói lên tư tưởng ấy bằng công thức trực tiếp : “Lạy Cha, xin cho con khỏi uống chén (đắng) này”. Chỉ có điểm phải nói, là : thay vì nói : “khỏi phải qua GIƠ này”, thì Đức Giêsu trong sách Mát-thêu nói : “khỏi uống chén này”. Trong Thánh Kinh, từ “chén” cũng là một từ có nội dung đặc biệt, và có nghĩa là : mật đắng phải uống, đau khổ phải chịu, số phận đau thương. Đức Giêsu xin cho khỏi uống chén “đắng”, tức là Người xin cho khỏi cái chết trên Thập Giá mà Chúa Cha đã định.

Ở đây, chúng ta thấy rõ ràng nhân tính của Đức Giêsu. Làm người, ai cũng sợ chết; hơn nữa, cái chết càng gần và càng thảm khốc, thì con người càng hãi hùng (Mc), buồn rầu (Mt), xao xuyến. Mà đó là trường hợp của Đức Giêsu. Người nói với môn đệ : “Tâm hồn Thầy buồn đến nỗi chết được”. Rồi Người xin Chúa Cha cho khỏi phải qua giờ đau khổ, khỏi uống chén đắng. Tuy nhiên, dầu sợ chết, Người cũng sẵn sàng chết, nếu đó là Thánh Ý Chúa Cha : “Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”.

Canh thức và cầu nguyện

Không thấy Chúa Cha đáp lời, Đức Giêsu mới trở lại với ba môn đệ. Nhưng ba ông lại ngủ mất, nên Người đã buồn rầu lại càng thấy mình cô đơn. Người mới kêu ông Phê-rô mà than trách. Theo thánh Mác-cô, thì Đức Giêsu kêu ông Phê-rô mà than trách chính ông : “Si-mon, anh không thức nổi một giờ sao ?”.

Sau khi than trách, Đức Giêsu bảo các môn đệ : “Phải canh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn”. Mỗi người đều có kinh nghiệm bản thân về hiện tượng giằng co giữa tinh thần và thể xác, và cũng phải thú nhận rằng tinh thần không dễ gì chế ngự thể xác luôn đâu. Vì sự việc là thế đó, nên chỉ có một cách là đề phòng và cầu nguyện, nhất lại khi đó là cơn thử thách cánh chung mà Đức Giêsu muốn nói ở đây, một cơn thử thách, một cơn cám dỗ làm cho con người khiếp hãi, bỏ cuộc và sa ngã trong giờ chung kết mà không chu toàn sứ mệnh cứu độ.

Mồ hôi máu nhỏ từng giọt (Lc 22,44)

Theo thánh Luca thì Đức Giêsu cũng đi cầu nguyện và trở lại với các môn đệ, nhưng chỉ một lần mà thôi. Thế là tác giả không nhấn mạnh đủ. Tuy nhiên, thay vì nói đi nói lại ba lần việc Đức Giêsu cầu nguyện và trở lại với các môn đệ, thánh Luca nói rõ rằng Người khẩn thiết cầu xin, và hơn nữa, ngài còn nói thêm : Đức Giêsu khẩn thiết cầu xin như thế, là vì lòng Người hãi hùng xao xuyến như lâm cơn hấp hối, đến nỗi mồ hôi Người như máu nhỏ giọt xuống đất.

Thánh Luca còn ghi thêm một chi tiết khác, là sau khi Đức Giêsu cầu xin, liền có thiên thần xuất hiện an ủi. Là môn đệ của thánh Phao-lô, thánh Luca được thấm nhiễm tư tưởng của thầy, để ý hơn ai hết mối tương quan giữa sự yếu đuối của loài người và sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Thánh Phao-lô nói : “Lúc tôi yếu, là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Mà, ở đây, nhân tính của Đức Giêsu cũng phải đau khổ, chết chóc. Nên, chính vào lúc đó, Chúa Cha đã sai phái thiên thần đến, tiếp sức cho Đức Giêsu. Ngày xưa, sau khi thắng cơn cám dỗ trong hoang địa, Chúa Cha đã sai thiên thần đến “hầu bàn”, thì hôm nay, cũng thế.

Xin cho con can đảm ,

Đối diện với những thách đố,

Vì biết rằng cuối cùng ,

chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn lao.

Trên Thập Giá

Đứng gần Thập giá (Ga 19,25) :

Tại đồi Gôn-gô-tha, trong các bà con thân hữu có mặt, phải kể một số phụ nữ, tuy thánh Mát-thêu chỉ nói đến khi tường thuật những việc sau khi Đức Giêsu đã qua đời. Các bà này đã theo Người từ miền Ga-li-lê, họ theo để giúp đỡ.

Nhưng, trong các bà ấy, người đáng nói hơn hết, chính là Đức Maria, vì Người là Mẹ Đức Giêsu, và nhất là vì Đức Giêsu, trên cây thập giá, trước khi tắt thở, đã trối cho Người này lời di chúc quan trọng.

Thưa Bà, đây là con của Bà (Ga 19,26) :

Thánh Gioan viết : “Thấy thân mẫu và môn đệ mình yêu quý (tức là thánh Gioan) đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng : “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ : “Đây là Mẹ của anh””. Lời văn đơn sơ, dễ hiểu, đồng thời lại cho chúng ta thấy một vấn đề rất quan trọng là Đức Maria không còn người con nào khác, ngoài Đức Giêsu. Anh em Thệ phản cho rằng : Đức Maria còn có nhiều người con khác, ngoài Đức Giêsu. Nhưng bản văn nói trên cho chúng ta thấy ngược lại.

Quả vậy, Đức Giêsu chết, thì những người con ruột khác của Đức Maria phải chăm lo, săn sóc, nếu có. Nhưng Đức Giêsu đã phải nhờ thánh Gioan chăm lo, săn sóc. Thì phải hiểu ngầm rằng : ngoài Đức Giêsu ra, Đức Maria không còn người con ruột nào khác nữa. Đó là nghĩa đen của bản văn

Người trao cho Đức Maria một sứ mệnh, là làm Mẹ thánh Gioan và làm Mẹ chúng ta, mà thánh Gioan là người đại diện dưới cây thập giá. Và, như thế, các nhà Thánh Kinh Công giáo thấy rằng Đức Giêsu đã đặt Đức Maria làm Mẹ chúng ta, và bản văn Ga 19,26 này là bản văn nền tảng cho tín điều ấy.

Muốn thấy rõ hơn, chúng ta phải đọc bản văn Ga 19,26 cùng với bản văn Ga 2,1-12 (tiệc cưới tại Ca-na), vì hai bản văn ấy như là hai bản văn xướng đáp, mở đóng.

Hôm ấy, tại tiệc cưới Ca-na, Đức Giêsu nói với Đức Maria và cũng gọi Người là “Bà”, theo nghĩa “đàn bà”, người làm mẹ. Khi Đức Maria xin Người cứu giúp gia đình tân hôn khỏi nhục nhã vì hết rượu giữa đám, Đức Giêsu đáp : “Thưa Bà, giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4). Nói thế, Đức Giêsu có vẻ như hẹn với Đức Maria một giờ nào đó hãy xin.

Hôm nay, Giờ Đức Giêsu đã đến, nghĩa là Giờ Đức Giêsu được tôn vinh vì Người đã vâng ý Chúa Cha mà chịu chết, Giờ ấy đã đến trên thập giá, Người trao cho Đức Maria chẳng những gia đình tân hôn hôm ấy phải chăm lo, mà còn tất cả các môn đệ của Người, tất cả những ai tin vào Người trong quá khứ cũng như ở tương lai. Đó là ý nghĩa của câu : “Thưa Bà, đây là con của Bà”.

Lạy Cha, sao Cha bỏ con

Vào độ 3 giờ, Đức Giêsu kêu lớn tiếng. Đây không phải là tiếng kêu la của con người khi bị đau đớn tột độ.

Đức Giêsu kêu lớn tiếng rằng : “Ê-li, Ê-li, lê-ma sa-bác-tha-ni”, nghĩa là : “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao ?”.

Thánh vịnh 22 mở đầu bằng đau khổ, nhưng kết thúc trong hy vọng. Nên, khi đọc Tv 22,2, Đức Giêsu muốn nói lên nỗi khốn khổ của mình trên thập giá, nhưng đồng thời cũng khẳng định niềm hy vọng vững chắc rằng, Chúa Cha sẽ cứu mình.

Kêu một tiếng lớn :

Có kẻ cho rằng la như thế là dấu chỉ Người thất vọng, hoặc là dấu Người còn sức mạnh. Tuy nhiên, đây chỉ là một công thức thường gặp trong Thánh Kinh (Cv 14,10 ; 26,24 ; Lc 17,15 ; 19,37), và thường dùng để lưu ý đến lời nói tiếp sau. Lời nói ấy là lời nói nào ? Thánh Mát-thêu không nói, nhưng thánh Luca và thánh Gioan có nói (Lc 23,46 ; Ga 19,30).

Hoàn tất (Ga 19,30) – Phó thác (Lc 23,46) :

Theo thánh Gioan thì, trước khi tắt thở, Đức Giêsu nói : “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,30). Lời ấy cho chúng ta thấy rằng Đức Giêsu suốt đời những muốn chu toàn Thánh Ý Chúa Cha được ghi chép trong Thánh Kinh (Ga 4,34 ; 6,38 ; 17,4 ; 13,1), và, hôm nay, Người đã chu toàn tất cả Thánh Ý Chúa Cha : từ việc nhập thể trong lòng Đức Maria cho đến chuyện uống giấm vừa xong, tất cả đều được thực thi đúng mức. Thật là tốt đẹp, một sứ mệnh cao cả được chu toàn.

Theo thánh Luca thì trước khi tắt thở, Đức Giêsu kêu lớn tiếng : “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Câu này, Người mượn ở Tv 31 (30),6. Mà Thánh vịnh này là lời của người sầu khổ kêu xin, phó thác. Nên, khi dùng Thánh vịnh này kết thúc cuộc đời, Đức Giêsu cho thấy Người phải khốn cùng, nhưng sống chết vẫn cầu xin, phó thác vào bàn tay Thiên Chúa.

Trút hơi thở :

Sau đó, các sách Tin Mừng nói : “Người tắt thở” (Mc, Lc), “Người trút hơi thở” (Mt), “Người trao hơi thở” (Ga). Chúa chết, sự việc thật là to tát, nhưng được diễn tả bằng vài chữ ngắn gọn. Mà cũng phải, vì sự việc như thế, không nên mô tả bằng lời văn lãng mạn, và cũng không thể mô tả bằng ngôn ngữ loài người. Tốt hơn hết là nói ít hoặc làm thinh.

Sứ mệnh chu toàn, Người phó thác linh hồn rồi ra đi. Và, theo thánh Gioan, thì cả việc ra đi này, Đức Giêsu cũng chủ động chứ không phải vì kiệt sức, hết hơi.

Đức Giêsu bị treo trên thập giá và, lúc ba giờ chiều, Người tắt thở. Trước mắt người phàm, thì Đức Giêsu thất bại hoàn toàn, lại còn phải ô nhục. Người đau khổ đến nỗi phải kêu lên.

Người kêu, nhưng Chúa Cha vẫn làm thinh. Loài người lại còn chế giễu. Người kêu lên như thế, có phải là vì thất vọng không ? Thưa không.

Đức Giêsu đã dùng lời Thánh vịnh 22 (21) mà kêu. Mà Thánh vịnh này kết thúc với tâm hồn trông cậy. Mà cũng phải. Thực thì Đức Giêsu đã chết ; và tất cả những gì là đặc biệt của cái chết của người phàm, đều thấy có trên thập giá chiều hôm ấy.

Tuy nhiên, cái chết của Đức Giêsu chỉ là một cuộc vượt qua, vì Người sẽ sống lại vinh hiển. Hơn nữa, nó đổi thay số phận loài người, mang lại cho loài người sự sống vĩnh cửu. Những biến cố xảy ra chiều hôm ấy cũng đủ để minh chứng điều ấy : Đền thờ, cảnh vật, những người lành của Cựu ước và nhất là người dân ngoại (Mt 27,54).

Lạy Chúa,

Chúa đã chết để cứu sống con

Chúa đã chấp nhận nhục nhã tủi hổ

Để con sống trong sự tự do hào hùng

của người con cái Chúa [Mục Lục]

7. BUỔI CHIỀU THINH LẶNG THÁNH- Jos. Vinc Ngọc Biển

“Hỡi không gian rủ sương mù ngàn mây hỡi hãy che khắp trời cao. Ánh kim ô vụt lu mờ. Vì thương Chúa gánh muôn nỗi khổ đau” (Giờ tử nạn, Lm. Hoài Đức).

Với những lời hát rất sâu lắng ấy, tác giả đã dẫn đưa chúng ta đi vào tâm tình của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh trong thinh lặng.

Thinh lặng để thấy, hiểu, để cảm nghiệm và để thay đổi lối sống cho phù hợp với những gì tốt lành mà mình đã thấy, hiểu và cảm nghiệm.

Thinh lặng còn làm cho chúng ta đi vào tâm tư của người khác để cùng họ sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn.

Thinh lặng để thấy

Cũng vậy, trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, chúng ta rất cần sự thinh lặng để sống những tâm tình vừa nêu ở trên!

Trước tiên, thinh lặng để thấy: thấy Đức Giêsu là Đấng rất thương những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé họng, người ốm đau bệnh tật. Từ đó, Ngài không thể lặng im khi những điều đó xảy ra với con người dưới những chiêu bài “đánh lận con đen” khi nhân danh tôn giáo, đạo đức, người nghèo để làm khổ nhau.

Ngài không chỉ lên tiếng gián tiếp, nhưng Ngài đã “chỉ mặt đặt tên” nơi những con người có tâm đen tối. Ngài không chỉ nói mà còn hành động. Ngài không sợ chết mà ngược lại, sẵn sàng lấy mạng sống của mình bảo vệ những người bị ngược đãi để đổi lấy sự công bằng.

Chính vì thái độ và lựa chọn của Đức Giêsu như vậy, nên chúng ta thấy Ngài đã bị những người Pharisêu, Kinh Sư, Thượng Tế ghét bỏ và tìm mọi cách để hạ sát. Với họ, Đức Giêsu chính là cái gai trong mắt, cái đó ngáng đường. Họ luôn coi Ngài là thành phần nguy hiểm, cần phải loại trừ ra khỏi xã hội.

Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy phản ứng chống lại Đức Giêsu của những nhà lãnh đạo Dothái thời bấy giờ rất gắt gao do những nguyên nhân như: ghen tương, thù hận, gian dối, kiêu ngạo.

Bên cạnh đó, chúng ta còn nhìn thấy thái độ hoang tưởng và vụ lợi của Giuđa; sợ hãi của Phêrô cũng như các môn đệ khác; sự thay trắng đổi đen của dân chúng; sự hèn nhát, nhập nhằng của Philatô….

Trên đây là những điều chúng ta thấy được qua cuộc thương khó của Đức Giêsu.

Thinh lặng để hiểu

Khi đã thấy được nguyên nhân dẫn đến cái chết của Đấng Cứu Thế, giờ đây, chúng ta cùng nhau thinh lặng để hiểu về cuộc thương khó này dưới cái nhìn cứu độ.

Trong cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta thấy có hai tên trộm: một người được gọi là thánh trộm lành; một người phải gọi là kẻ trộm dữ. Tại sao vậy? Thưa, đơn giản là người trộm lành đã biết lắng nghe và hiểu được Đức Giêsu là ai! Đặc biệt, trong thinh lặng, anh ta còn nhận ra tội lỗi của mình để xin Chúa tha thứ. Còn tên trộm dữ đã không biết lắng nghe, ngược lại, hắn không ngớt chửi rủa và trách móc Đức Giêsu cũng như những kẻ đóng đinh hắn. Hắn không hiểu được ý nghĩa của cái chết nơi Đức Giêsu, vì thế, hắn đã tự mình đánh mất “phao cứu sinh” cuối cùng của cuộc đời đầy tội lỗi. Và như một lẽ tất yếu, hắn đã phải chết như một kẻ xa lạ với ơn cứu chuộc mà Đức Giêsu mang lại qua cái chết của Ngài.

Cũng như người trộm lành, qua cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta hiểu được rằng: tình yêu của Thiên Chúa là vô hạn. Tình yêu ấy đã đi bước trước để đến với nhân loại qua việc trao ban chính Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì được sống và sống dồi dào.

Đến lượt Đức Giêsu, tình yêu ấy được nở hoa cứu độ ngay trên thập giá, bởi vì: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”.

Như vậy, chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới có thể nhận ra và cảm nghiệm sâu xa về cái chết của Đức Giêsu là vì tình yêu, đồng thời, qua đó, chúng ta sẽ nhìn thấu tội lỗi của chính mình và của nhân loại, ngõ hầu ăn năn, sám hối, để được đón nhận ơn tha thứ từ mầu nhiệm khổ nạn của Đức Giêsu.

Thinh lặng để đổi thay

Từ những gì đã thấy, đã hiểu, đã cảm nghiệm, có lẽ mỗi người chúng ta đều có với nhau một mẫu số chung, đó là: bất bình, lên án những người đương thời với Đức Giêsu vì sự ác tâm, thất đức của họ, khiến Đức Giêsu phải chết một cách đau thương tức tưởi như vậy!

Tuy nhiên, trong thinh lặng sâu lắng, chúng ta cũng nên làm một cuộc cật vấn lương tâm tận đáy lòng mình, để xem thử mình có liên quan gì đến cuộc thương khó của Đức Giêsu không?

Xét về mặt khách quan bên ngoài như địa lý, thời gian và đối tượng, có lẽ chẳng thể nào tìm ra được một ai có những hành động trực tiếp với Đức Giêsu như những người Pharisêu, Kinh Sư và Thượng Tế khi xưa. Nhưng, xét về sự liên đới tâm linh, chắc chắn chúng ta không thể vô can nếu không muốn nói là tàn ác chẳng thua kém những kẻ gây nên cái chết của Đức Giêsu, thậm chí còn nặng hơn nữa!

Thật vậy, nhiều khi chúng ta sống thực dụng, ham tiền, hám lợi và chuộng danh vọng, những lúc như vậy, chúng ta đâu khác gì các môn đệ của Đức Giêsu khi các ông tranh giành chỗ nhất – nhì trong vương quốc mà họ tưởng chừng Đức Giêsu sẽ lập chốn trần gian!

Lại nữa, sự phản bội, vô ơn và sống hai mặt, nhiều khi lại là lựa chọn chủ đạo của chúng ta trong đời sống. Khi lựa chọn những thứ đó làm nền tảng cho đời sống của mình, chúng ta đâu khác gì Giuđa!

Rồi có lúc vì sợ mất chức, mất quyền, hay nhát đảm, nên đã không dám tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa, nhiều khi chúng ta cũng từ chối thuộc về Chúa khi không dám đứng về phía sự thật để làm chứng cho chân lý. Những lúc như thế, hình ảnh, thái độ và lựa chọn của Philatô và Phêrô lại hiện lên thật rõ nét trong từng hành vi và lời nói của chúng ta!

Cuối cùng, đám đông dân chúng khi xưa do thiếu hiểu biết, nên đã bị giới lãnh đạo tôn giáo “giật dây”, vì thế, họ đã phản bội Đức Giêsu. Mới ngày nào họ muốn tôn Ngài làm Vua. Sự kiện đó chỉ cách hôm nay có mấy ngày, họ đã long trọng đón Vị Vua ấy vào thành với tư cách là Đấng Thiên Sai, là Vua Israel. Miệng họ cũng đã từng tung hô vang trời lở đất để đón Chúa vào thành. Tuy nhiên, ngày hôm nay, họ đã thay đổi hoàn toàn!

Nhiều khi chúng ta cũng vì cái bụng mà sẵn sàng gian lận, đổi trắng thay đen, hay đã có những lần ta tìm mọi cách kéo Chúa về với phe ta, mặc dù biết những việc ta làm là sai trái…. Hoặc nhiều khi chúng ta cũng sống theo kiểu a dua với đám đông: “Ai sao tôi vậy, ai làm bậy tôi cũng làm theo!”.

Đôi khi chúng ta cũng nhân danh Chúa để làm những điều khuất tất, hoặc lấy Chúa làm bình phong cho những trái khuấy của mình! Lúc không được như ý muốn, chúng ta cũng phản bội Chúa bằng việc quay lưng lại với Ngài khi sẵn sàng tôn thờ một ngẫu tượng nào đó thay cho Chúa. Không còn lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình, ngược lại, chúng ta đã lấy lời của những thày bói, thày mo và cô đồng….

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết noi gương trung thành, yêu mến và can đảm của Đức Mẹ; người “môn đệ được Đức Giêsu yêu mến”; những phụ nữ Giêrusalem; bà Verônica; ông Simong và những người đạo đức khác…. Đồng thời, khi suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta hãy học bài học vâng phục và yêu mến của Đức Giêsu với Thiên Chúa Cha cách tuyệt đối cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự. Từ đó, mỗi người sẽ tiếp bước trên con đường tình yêu ấy cách trung thành để đến với tha nhân như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa khai trí mở lòng, để chúng con hiểu thấu được tình yêu mà Chúa dành cho chúng con qua mầu nhiệm thập giá. Xin cho chúng con dám cam đảm nói lên lời: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích gì?” Từ đó, chúng con biết trung thành, can đảm để thuộc trọn về Chúa và sẵn sàng làm chứng về Ngài trong mọi hoàn cảnh. Amen. [Mục Lục]

8. NGHỊCH LÝ CỦA THÁNH GIÁ (NGHI THỨC TƯỞNG NIỆM) – Jos. Vinc Ngọc Biển

Buổi chiều hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm Đức Giêsu chịu chết để chuộc tội thiên hạ. Buổi chiều hôm nay là “giờ” của Thiên Chúa Cha đã định, và cũng là “giờ” của Đức Giêsu hoàn tất chương trình cứu chuộc nhân loại; “giờ” của người Tôi Trung mà tiên tri Isaia đã loan báo. “Giờ” đó được hoàn tất trên Thánh Giá. Vì thế, phụng vụ chiều hôm nay đều quy chiếu về Thánh Giá Đức Kitô như một sợi chỉ xuyên suốt từ đầu đến cuối.

  1. Nghịch lý của Thánh Giá

Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã nói: Đức Giêsu Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8); và Ngài đã chết theo như lời Thánh Kinh (x. 1Cr 15,3).

Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá đã là nguyên nhân để nhiều người được cứu độ, nhưng cũng không thiếu những kẻ cứng lòng, cố chấp và chai lỳ trong ích kỷ, kiêu ngạo. Những người như thế, họ coi đó như là hình phạt mà Đức Giêsu là người đáng phải chịu do tội mình gây nên.

Thật vậy, khi thập giá được dựng lên, và khi Đức Giêsu chịu treo trên đó, đã không biết bao người tin theo và suy tôn. Tuy nhiên, cũng không thiếu những lời chê bai dè bỉu và khinh thường. Họ coi thập giá như là thứ đồ tể đáng sợ để trừng phạt những tử tội oái oăm, khét tiếng và nguy hiểm… Suy nghĩ như thế, thì cái chết của Đức Giêsu không có công trạng gì, mà chỉ như là một hình phạt đích đáng được dành cho một kẻ đã từng bị kết án vì tội “kích động dân chúng; tìm cách lật đổ chế độ và nói lời phạm thượng”. Và, những người theo Đức Giêsu phải chăng họ là bọn người cuồng tín khi tuyên xưng niềm tin của mình vào một kẻ bị treo trên cây gỗ như một tử tội!

Thật vậy, thập giá của Đức Giêsu hôm nay được tôn vinh, đã làm không ít người cảm thấy ngỡ ngàng, bởi vì xét theo người đời, thì đây chính là sự ô nhục, hận thù, đáng ghét… là biểu tượng của sự chết chóc và thập giá vẫn chỉ là dụng cụ ghê rợn được dùng để xử tử tội nhân mà thôi.

Nhưng đối với Thiên Chúa, thì đây chính là sự khôn ngoan khôn dò thấu của Người. Thánh Phaolô đã nói: “Con Thiên Chúa chết trên thập giá là một trong những đường lối khôn ngoan sâu thẳm mà không một ai dò thấu” (x. Rm 11,33). Bởi vì Thiên Chúa đã dùng thập giá như một sự nghịch lý để cứu độ con người.

Thực ra thập giá luôn mang tính nghịch lý, bởi vì nó tuyên dương quyền năng thượng trí của Thiên Chúa ở nơi mà người đời coi là điên rồ.

Nhưng với những người tin, hẳn sự cảm nghiệm, suy nghĩ và thái độ hoàn toàn ngược lại. Những người đó sẽ coi thập giá trở thành Thánh Giá và Thánh Giá lúc này trở thành phương dược, để qua đó Đức Giêsu chuộc tội thay con người và cứu độ nhân loại.

Nếu xưa kia trong vườn Địa Đàng, Ađam đã ngã gục trước cây trái cấm, và gieo rắc tội lỗi cho nhân loại, thì giờ đây, trên cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì mà Ađam đã đánh mất và để lại hậu quả cho nhân loại.

Như vậy, từ cây trái cấm, sự chết đã tiêu diệt thế gian, và trái cấm là rào cản lớn đến độ con người không thể vượt qua, thì giờ đây, từ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì đã mất do nguyên tổ gây nên và mặc cho nó thành cây Sự Sống, quả Phúc Trường Sinh.

Chính Đức Giêsu đã khẳng định rõ điều này khi nói: Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Vì thế, không lạ gì khi thánh Phaolô đã khẳng khái tuyên xưng niềm tin và ơn cứu chuộc của mình nơi Thánh Giá, ngài nói: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa […] Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Dothái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. (nhưng) cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (x. 1Cr 1,18-25).

Vì thế, “Nhờ máu Người đổ ra trên Thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).

  1. Đón nhận Thánh Giá như nguồn ơn cứu rỗi

Cuộc đời của người Kitô hữu, tức là cuộc đời của những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người luôn nghe thấy lời mời gọi của Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? “ (Mc 8,34-36); và: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,38).

Lời mời gọi đó đã được gióng lên ngày chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội cũng như suốt cuộc đời của mỗi người chúng ta. Như vậy, Thánh Giá trở nên cứu cánh và việc vác Thánh Giá trở thành điều kiện cần của chúng ta trên hành trình dõi bước theo Đức Giêsu.

Thánh Giá mà mỗi chúng ta phải vác ở đây chính là bổn phận phải chu toàn; là từ bỏ những thứ không cần thiết trên hành trình tin Chúa; là từ bỏ ý riêng… và phục vụ trong yêu thương.

Làm được như thế, ấy là chúng ta sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Giêsu. Đặt bước chân của ta vào dấu chân của Chúa, để sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng.

Như vậy, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Thánh Phaolô đã diễn tả tâm tình ấy khi tuyên xưng: Tôi cùng chịu đóng đinh với Ðức Kitô vào thập giá […] (Và) tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi ” (Gl 2,19-20).

Mặc lấy tâm tình của Đức Giêsu, người kitô hữu chúng ta sẽ từ bỏ con đường tội lỗi, để được hiệp thông cách trọn vẹn vào cuộc khổ nạn của Ngài, và như một định luật đối với những người tin và theo Đức Giêsu là: qua đau khổ thì mới được vào vinh quang.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng chịu treo trên Thánh Giá, xin thương xót và cứu chuộc chúng con. Amen. [Mục Lục]

9. THẬP GIÁ, Ô NHỤC VÀ VINH QUANG– Trích Logos B

Vào năm 1934, tại thủ đô Paris, nước Pháp, một người đàn ông tên Gustave Busset qua đời. Ông ta không có con cái, nhưng để lại một gia sản đáng giá. Người ta quyết định bán đấu giá tất cả đồ đạc của ông.

Trong cuộc bán đấu giá ấy, có sự hiện diện của một họa sĩ nghèo là Pierre Pinont. Sau khi đấu giá những đồ đạc đáng giá, người ta bán đến một cây thánh giá nặng nề thô thiển và bám đầy bùn đất dơ bẩn.

Không có ai mua cây thánh giá cả, chỉ duy có chàng họa họa sĩ nghèo chịu mua cây thánh giá với giá 25 quan. Nhiều người chê cười và cho rằng chằng họa sĩ ngu dại.

Thế nhưng, khi mang về nhà và lau chùi cây thánh giá sạch sẽ, chàng họa sĩ đã phát hiện ra hàng chữ nhỏ ở chân thánh giá : Benvenuto Cellini. Đó chính là tên một người thợ kim hoàn nổi tiếng người Ý.

Ngay lập tức, chàng họa sĩ đã đem cây thánh giá đến tiệm kim hoàn để kiểm tra và được biết : cây thánh giá đó được làm bằng vàng ròng và nó trị giá 60 ngàn đồng vàng. Sau đó, chính vua Louis-Philippe I đã mua cây thánh giá đó với giá 60 ngàn đồng vàng. Thế là sự ngu dại của chàng họa sĩ đã đáng giá bằng cả một kho tàng lớn lao !

Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội chiêm ngưỡng thập giá Đức Kitô. Quả thật, thập giá chính là một dụng cụ hành hình. Nhưng từ khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chết trên thập giá, thập giá không còn là dấu hiệu của sự ô nhục nữa. Trái lại, thập giá đã nở hoa cứu độ và là con đường vinh quang mở ra để mời gọi người tín hữu tiến bước.

Thập giá ô nhục

Bất cứ ai sống vào thời Chúa Giêsu cũng đều hiểu rõ và cảm nhận được sự nhục nhã của cây thập giá, nhất là nỗi ô nhục của kẻ bị đóng đinh vào thập giá. Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô tuyên bố : “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, đó là một chướng kỳ ô nhục đối với người Do Thái và là điều điên rồ đối với người ngoại giáo” (1Cr 1, 23). Thập giá còn là thứ khổ hình dành riêng cho người nô lệ, không những đem đến một cái chết bi thảm, mà còn là một nỗi hổ thẹn đến cùng cực.

Chúa Giêsu không từ chối và chạy trốn thập giá, nhưng Ngài đã đón nhận để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã không để cho thập giá đè bẹp mình, nhưng Ngài đã thăng hoa thập giá và biến thập giá thành con đường vinh quang bất diệt.

Thập giá vinh quang

Các môn đệ ngày xưa đã vấp phạm vì thập giá. Ngày nay cũng vậy, con người không dễ dàng chấp nhận thập giá. Theo cái nhìn thông thường, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu là một thất bại lớn lao, là một nỗi thất vọng ê chề. Thật ra, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một cuộc chiến thắng vẻ vang và thập giá trở thành vinh quang sáng ngời. Chính thập giá đã đưa Chúa Giêsu lên cao và nhờ vậy, Ngài đã kéo mọi người lên cùng Ngài. Thật vậy, Chúa Giêsu đã bị đóng chặt vào cây thập giá. Vì thế, Ngài đã tạo cho thập giá một thế đứng bất khuất trên giòng đời và qua mọi thời đại. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, vì vậy Ngài đã đem đến cho thập giá một ý nghĩa mới. Khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu đã chiếu tỏa vào thập giá một ánh vinh quang chói ngời.

Thập giá được biến đổi để trở thành Thánh Giá với một dáng đứng bất diệt muôn đời. Vì vậy, những ai chịu đóng đinh mình vào Thánh Giá, cũng sẽ được sống lại với Ngài. Những ai chấp nhận gắn bó với Thánh Giá, người ấy cũng được thông dự vào vinh quang Phục Sinh với Chúa.

Thánh Giá luôn phải là tư thế của người tín hữu hôm nay. Nghĩa là người tín hữu phải họa lại hình ảnh và vóc dáng của Thánh Giá trong đời mình : luôn vươn dậy, hai tay giang rộng, sẵn sàng đón nhận tất cả.

Hôm nay, ngày suy tôn Thánh Giá, chúng ta hãy cất lên lời kính thờ Thánh Giá :

Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa.

Hát mừng Ngài sống lại hiển vinh

Ấy chính vì bởi cậy thập giá

Niềm hân hoan tràn ngập địa cầu. [Mục Lục]

10. TÌNH YÊU VÀ THẬP GIÁ – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn ngắm Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình bị treo trên thập giá, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá. Bởi theo thánh Ambrosiô, khi Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu khi ngài chết trên Thánh Giá, và Giáo hội mời gọi chúng ta tưởng nhớ tình yêu dâng trào ấy.

Chúa đã chết vì yêu

Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả : « Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.

Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta » (Is 53, 2-6).

Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu”, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó. Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng : “Thiên Chúa là Tình Yêu”.

Thờ lạy Thánh Giá Chúa

Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiến xướng chúng ta hát : Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy ?

Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Người đã chiến thắng ma quỉ bằng phương cách do chính ma quỉ dùng để chiến thắng thế gian. Chúng ta thấy : Một người nữ, cây gỗ, sự chết, là những phương tiện và khí cụ làm con người thất bại. Người nữ ấy là Evà đã không còn biết đến Adam; cây trái cấm, và bản án tử hình đối với người đầu tiên. Một người nữ, cây gỗ, sự chết, là những phương tiện và khí cụ làm chúng ta thất bại đã trở nên phương tiện và khí cụ giúp chúng ta chiến thắng. Đức Maria đã thay thế Evà; gỗ thánh giá, gỗ của cây biết lành biết dữ ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô, cái chết của Adam. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại quỉ ma. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục ; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người.

Nhờ những ân huệ và kỳ công từ cây Thập Giá, chúng ta đã từ cái chết đến cõi trường sinh. Thập Giá đã mang lại chiến thắng cho chúng ta; chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng : Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận.

Từ đó chiến thắng là của chúng ta, hãy để niềm vui dâng trào như những người lính, hát bài ca chiến thắng để ngợi khen Thiên Chúa: “Sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?” (1Cr 15, 54-55).

Đây là những lợi ích mà chúng ta có được từ cây Thập Giá; Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới.

Thật vậy, để xua tan bóng tối của một ngôi nhà tăm tối, chúng ta thắp một ngọn nến hay nâng cao ngọn đuốc ; chính Chúa Giêsu Kitô đã thắp sáng và nâng cao cây thánh giá như một ngọn đuốc để xua tan bóng tối nhân gian. Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra ; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé ? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi.

Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen. [Mục Lục]

***

THỨ BẢY TUẦN THÁNH

1. ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN – Chú giải của Noel Quession

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần

Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, “ngày thứ nhất” trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.

Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế? Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ “dựng nên” công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).

Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ

Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố”. Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).

Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến

Chi ta “chạy”. Chi tiết này rất có ý nghĩa.

Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho “môn đệ” không nêu rõ danh tánh: “Người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.

Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu

Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.

Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ “ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!

Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước

Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thường này?

Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.

Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: “ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.

Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.

Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào

Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!

Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.

Ông đã thấy và đã tin.

Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24,12).

Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”.

Phêrô thì không hiểu gì hết.

Còn Gioan sáng suốt hơn, “ông đã thấy và đã tin”.

Vây ông đã thấy những gì?

Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.

Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến “người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).

Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau “quyền bính”, trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong “trong tình yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.

Ông đã thấy và đã tin.

Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy “băng vải tuột ra” và “khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ”, nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.

Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.

Dấu chỉ không có khả năng “trao ban đức tin” cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để đi tới “điều tin nhận”. Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.

Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: “Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?” Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.

Vì thế, sự kiện “mộ trống” và “những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.

Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.

Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết

Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: “Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết”.

Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! “Ngôi mộ trống” chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).

Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.

Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến. [Mục Lục]

2. NGÔI MỘ MỞ TUNG VÀ TRỐNG RỖNG- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

Người đang sống

Thật nghịch lý, Tin Mừng ngày lễ Phục sinh chỉ dừng lại ở chỗ khám phá ra ngôi mộ mở tung và trống rỗng mà không dẫn ta đi đến cùng câu chuyện, cho đến khi gặp Maria Madalêna cùng với Đấng Phục sinh và lời loan báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Đức Chúa, và đây là lời Người nói với tôi (câu 28). Dường như phụng vụ hôm nay muốn mời ta đi lại hành trình đức tin theo gót những chứng nhân đầu tiên.

Trong đoạn Tin Mừng ta đọc sáng nay, tác giả rõ ràng đã sắp xếp một quá trình “tiệm tiến gây ấn tượng”.

– Trước tiên đó là những “di chuyển” rất nhiều và rất nhanh: động từ “chạy” được lặp lại ba lần chỉ trong một câu. Sau khi khám phá ra ngôi mộ mở tung, Maria Madalêna chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ kia. Simon Phêrô và môn đệ kia chạy đến mồ, môn đệ kia tới trước. Các cuộc chạy nối tiếp nhau để tìm ra một câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi không thể hiểu nổi về ngôi mộ mở tung và trống rỗng.

– Kế đó là những “dấu chỉ” ngày càng rõ nét (với những động từ “nhìn”, “thấy”), và “lời giải thích” về các dấu chỉ do chính các tác nhân đưa ra.

– Maria Madalêna “thấy” phiến đá lập cửa mồ “được cất đi”, và kết luận rằng thi thể của Thầy mình cũng đã “bị lật đi”. Môn đệ kia tới trước. Tuy nhiên ông không vào mộ trước Phêrô, “cúi xuống, ông thấy tấm khăn liệm còn đó”.

– Còn Simon Phêrô, sau khi đã vào trong mộ. “Ông nhìn tấm khăn liệm nằm đó, tấm vải phủ đầu không ở cùng chỗ với khăn liệm, nhưng cuộn lại và để riêng ra”. Khác với Tin Mừng của Luca (24, 12) gợi lên ở đây sự “kinh ngạc” của Phêrô, thánh Gioan không đi xa hơn những gì nhận thấy. Mãi sau này, khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh và đã nhận tràn đầy Thánh Thần, Phêrô mới hiểu tại sao ngôi mộ lại trống và tâm hồn ông mới mở ra để hiểu lời Thánh Kinh. Tin Mừng thứ tư nói rõ: “Thật vậy cho đến lúc ấy các môn đệ vẫn chưa tin rằng theo Thánh Kinh Đức Giêsu phải phục sinh từ trong kẻ chết”.

– Riêng người môn đệ kia, sau đó cũng vào mộ, ông nói rằng ngay lần cảm nghiệm phục sinh đầu tiên đó “ông đã thấy và ông đã tin”.

Và ông đã tin

Dưới mắt Giáo Hội, Phêrô vào trước và đương nhiên trở thành chứng nhân thứ nhất. Trái lại, “Môn đệ kia” được trình bày ở đây như mẫu mực của người môn đệ, người môn đệ tuyệt hảo; “Người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến”; Người trong bữa Tiệc ly đã “tựa đầu vào lòng Đức Giêsu”, với trực giác của tâm hồn, đã nhìn thấy trong cõi rỗng không của ngôi mộ, vị trí của tấm vải liệm -xếp đặt gọn gàng chứ không bừa bãi- biết bao dấu chỉ về một thực tại khác, chỉ có đức tin mới cảm nhận được: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Theo ông, chẳng có ai “lấy đi” thi thể của Đức Giêsu như Maria Madalêna đã loan báo: Kẻ cắp nếu đã lấy trộm xác Thầy làm sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn thận xếp đặt gọn gàng đến thế? Theo ông, sự chết đã hoàn toàn bị sự sống tước đoạt hết sức mạnh. Trong ông đã hình thành một ‘chuyển biến từ thấy đến hoàn toàn tin’ vào Đức Giêsu phục sinh. Khăn liệm được xếp đặt ngay ngắn đã chứng tỏ rằng thi thể Đức Giêsu không hề bị lấy cắp, nhưng chính Đức Giêsu đã đi ra, để lại khăn liệm gọn gàng thứ tự tại nơi Người đã được liệm. Khác với Lazarô đi ra vẫn quấn khăn liệm, Đức Giêsu chẳng cần y phục vì Người giã từ thế giới loài người” (A. Marchadour, “Tin Mừng thánh Gioan”. Ccnturion, trg 244).

Là một trong những chứng nhân đầu tiên đã “thấy Đức Giêsu Phục sinh, người môn đệ kia đồng thời là mẫu mực cho những ai tin theo lời chứng của ông: “tin dù không thấy” (Ga 20, 29, Tin Mừng Chúa nhật tới).

BÀI ĐỌC THÊM

Khi sinh ra trong đức tin. Phêrô và Gioan mời ta theo các ngài: (‘Cử hành’ -tạp chí của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ và phụng vụ, số 237, trg 41-42).

Các động từ chỉ sự di chuyển tràn ngập trình thuật: ra đi, chạy, vào những động từ ấy nói lên các giai đoạn trong hành trình của các môn đệ đồng thời kéo theo hành trình của độc giả. Hành trình này không kết thúc ở đoạn cuối của một giai thoại. Các cuộc hiện ra với Maria Mađalêna, với các môn đệ, với Tôma, vẫn còn biết bao chặng đường thiết yếu để đi đến cùng: “Tin dù không thấy” và “tin nhờ vào quyển sách của các chứng nhân” (Ga 20, 29-31).

Trong chặng đầu tiên, ta đuổi theo một câu trả lời đầu tiên. Bí hiểm ngay ở khởi điểm: “Chúng tôi không biết họ đã đặt Đức Chúa ở đâu”. Cần một cuộc điều tra. Một hoạt động từ thứ hai điểm nhịp theo tiến trình: nhìn, thấy. Ta đi từ ghi nhận này đến ghi nhận khác. Ghi nhận đầu tiên là của Maria Mađalêna: tảng đá được cất đi, thi thể bị lấy đi. Ghi nhận thứ hai là của các môn đệ: vải liệm xếp gọn gàng. Ghi nhận thứ ba nhưng liệu có trùng với hai ghi nhận trên không? Người môn đệ Đức Giêsu yêu quý “đã thấy và đã tin”.

Ánh sáng đức tin phát xuất từ Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu. nhưng ngôi mộ mở tung, đầy những dấu chỉ của một thi thể người chết nhưng biến mất, bước đầu cho phép ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa đang sống ở nơi khác. Hai con người đang sinh ra trong đức tin, mỗi người cất bước theo con đường riêng, dắt dìu nhau. Họ mời ta hãy bước theo họ.

Tại ngôi mộ để ngỏ (G. Boucher trong “Thiên đường tại thế”)

Buổi sáng hôm ấy một phụ nữ, Maria Madalena đến viếng mộ Đức Giêsu. Nhưng, sững sờ: cửa mộ để ngỏ, mở tung ra. Ai đã lăn tảng đá lấp cửa mộ ra rồi. Thoạt nhìn ngôi mộ mở tung gợi lên một trò lừa đảo, gian lận, một trò bỡn cợn đê tiện hoặc một sự tục hoá không chấp nhận được.

Phải, phản ứng thế nào trước một xì căng đan như thế trước hết Maria Madalêna tham vấn các môn đệ. Bà chạy đến với Phêrô. Tức tốc Phêrô và Gioan thoát ra khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Ông rời bỏ nơi ẩn náu. ông chạy đến xem và ghi nhận tại chỗ. Thật là một sự báng bổ, ghi nhận đầu tiên là thế.

Phêrô và Gioan cùng chạy. Họ chạy đến ngôi mộ mở ngỏ. Họ phải đối diện với một biến cố quan trọng. Và Gioan đã thấy. Ông đã thấy và đã tin.

Gioan thấy. Mà thấy gì? Chẳng thấy gì cả! Có gì đâu mà thấy. Vậy mà điều ông thấy đã khiến ông tin.

Ta hãy cùng Gioan cúi xuống. Ta thấy gì? Một lỗ hổng đen ngòm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông chứa đầy sự sống. Những vật trang hoàng cho lễ tang đã biến thành y phục sáng láng. Một sự vắng mặt la lên sự có mặt. Một sự im lặng chết chóc hùng hồn hơn tất cả những bài diễn văn. Một bức tường chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết thúc tất cả mang vóc dáng sự khởi đầu. Một cái chết nối kết với một sinh thành. Một mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí quyết.

Ai đã sáng chế ra từ ngữ ngôi mộ trống rỗng? Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Bằng chứng là Gioan thấy được trong mộ chân dung đích thực của Đức Giêsu, bạn ông.

Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Đâu có hoang vu. Đâu có câm nín. Đâu có bay mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó vẫn còn nói với ta. Ta sẽ bỡ ngỡ. Vì sự vắng mặt ấy tuy to lớn như một nấm mồ, lại là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.

Dưới ánh mắt của não trạng hiện đại đã ăn sâu vào mỗi người, chết là chấm dứt tất cả. Là dấu chấm hết. Sau đó chẳng còn gì. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài sự trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết giam kín ta.

Nhưng này đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người mở tung. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Có tên là chỗi dậy. Phục sinh.

Ngôi mộ mở tung lòng trí và tâm can ta. Ký ức ta lấy được sự sống và hồi sinh. Ta mở lòng ra cho đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng khi vượt qua bức tường sự chết, khi nâng tảng đá cửa mộ lên, Đức Giêsu hoàn thành cuộc phục sinh đã báo trước. [Mục Lục]

3. ĐÊM THÁNH- Lm. Carolô Hồ Bặc Xái

DẪN VÀO THÁNH LỄ

(Như trong sách lễ Rôma)

Anh chị em thân mến, trong đêm cực thánh này, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã vượt qua từ sự chết đến sự sống, Hội Thánh mời gọi con cái tản mát trên khắp địa cầu họp nhau canh thức cầu nguyện. Nếu chúng ta kính nhớ lễ Vượt qua của Chúa, nghe lời và cử hành mầu nhiệm của Người, thì chúng ta có hy vọng được thông phần vào cuộc toàn thắng sự chết của Người và được sống với Người trong Chúa.

LỜI CHÚA (phần thánh lễ)

Thánh Thư : Rm 6,3-11

Khi lãnh nhận phép rửa, tín hữu được tham dự vào sự chết và sống lại của Chúa Giêsu :

Thánh Phaolô nói theo nghi thức Rửa Tội thời Giáo Hội sơ khai : người dự tòng được dẫn đến giếng rửa tội, rồi dìm toàn thân vào nước, sau đó đứng lên.

Nghi lễ ấy mang ý nghĩa vượt qua : việc dìm mình xuống nước có nghĩa là để cho con người cũ (xác thịt, tội lỗi) chết đi ; việc chỗi dậy có nghĩa là sống lại thành con người mới, con người thuộc về Thiên Chúa.

Đáp ca : Tv 117

Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.

Tin Mừng : Mc 16,1-8

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, một số phụ nữ vội vàng ra mộ để xức thuốc thơm cho xác Chúa Giêsu. Nhưng các bà thấy tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra một bên, không có xác Chúa trong mộ. Một thiên sứ báo cho các bà biết Chúa Giêsu đã sống lại và bảo các bà hãy đi loan Tin Mừng ấy cho các môn đệ.

LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, hôm nay toàn thể Hội thánh long trọng mừng Chúa Giêsu Kitô sống lại vì đó là nền tảng cho niềm tin của Hội thánh, là nền tảng cho Tin mừng Người loan báo. Chúng ta hãy phấn khởi dâng lên Chúa những lời cầu nguyện sau đây :

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / đã được chết cho tội lỗi và sống lại trong Đức Kitô nhờ Bí tích Thanh tẩy / biết mau mắn từ bỏ tội ác / và sống theo đời sống mới của con cái Thiên Chúa.

Chúng ta cầu xin Chúa cho những người không tin Chúa, chống lại Chúa và sống trong tình trạng tội lỗi / biết mở lòng mở trí đón nhận ánh sáng của Chúa Phục sinh / để tìm được chân lý và hy vọng cho đời mình.

Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang sống trong nghèo đói, thất nghiệp không nhà không cửa / gặp được nhiều người giúp đỡ ủi an / và nhận ra Chúa Giêsu là đã chết và sống lại vì yêu thương họ.

Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / đặc biệt là anh chị em tân tòng / biết dùng lời nói và việc làm để làm chứng về Chúa Giêsu Phục sinh / cho những người lương dân sống chung quanh chúng ta.

Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã đem niềm vui phục sinh đến cho chúng con hôm nay, xin cho chúng con biết chia sẻ niềm vui và niềm tin ấy cho mọi người chúng con gặp để tất cả được chung hưởng niềm vui của con cái Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

TRONG THÁNH LỄ

– Trước kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu phục sinh đã thiết lập cơ sở vững chắc cho Nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho Nước ấy được mở rộng khắp nơi, trong lòng mọi người.

– Chúc bình an : Chúa Giêsu phục sinh đã mang bình an đến cho chúng ta. Chúng ta hãy thành thật chúc nhau được hưởng bình an của Chúa.

GIẢI TÁN

Đức Kitô đã sống lại và đang sống mãi. Ngài sống trong cuộc đời chúng ta và trong thế giới này. Chúng ta hãy làm những chứng nhân nhiệt tình cho Ngài, mang niềm vui và an bình đến cho mọi người. Halleluia, Halleluia. [Mục Lục]

4. TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI NHÂN LOẠI – Đức Cố TGM Phaolô Bùi Văn Đọc

Đêm canh thức Phục Sinh, Giáo hội cho chúng ta nghe nhiều bài đọc Kinh Thánh, để dọn lòng chúng ta đón mừng Chúa Phục Sinh cách long trọng, hân hoan nhất. Chúng ta được nhìn lại tất cả lịch sử nhân loại, tất cả lịch sử cuộc đời chúng ta, dưới ánh sáng của Lời Chúa. Giáo hội như muốn cho chúng ta nghe cho rõ, thấy cho được Tình thương của Thiên Chúa đối với nhân loại và đối với mỗi một người chúng ta.

Chúng ta đi từ Sáng tạo, từ lúc bắt đầu lịch sử của vũ trụ, bắt đầu lịch sử cuộc đời chúng ta. Vũ trụ bao la cũng như mỗi một người chúng ta, đều không phải là do ngẫu nhiên mà có, nhưng là do Tình thương của Thiên Chúa mà có. Chúa muốn có mặt chúng ta ở đời này, nên cuộc đời của chúng ta có ý nghĩa, có giá trị trước mặt Chúa và trước mặt người khác. Chính vì thế không phải chúng ta muốn sống ra sao cũng được. Nhưng phải sống sao cho ra cái giống người, cho xứng đáng là hình ảnh của Thiên Chúa.

Giáo hội lại cho chúng ta nghe câu chuyện của ông Abraham hiến tế ông Isaác, như báo trước cho chúng ta hy tế thập giá của Chúa Giêsu. Ở đây tình thương của Thiên Chúa còn được nhấn mạnh nhiều hơn nữa. Thiên Chúa sẵn sàng hy sinh Con một của Người là Chúa Giêsu, để cho chúng ta nhờ Chúa Giêsu mà được tha tội. Chúng ta được mời gọi lắng nghe Chúa Giêsu, để hiểu được Tình thương của Thiên Chúa. Bước theo Chúa Giêsu, noi gương Chúa Giêsu, sống như người con thảo đối với Thiên Chúa, người anh em đối với mọi người.

Ông Môsê vâng nghe lời Thiên Chúa, giải thoát Dân Israel ra khỏi ách nô lệ của Dân Ai cập, là hình bóng của Chúa Giêsu là Môsê mới, vâng lời Thiên Chúa, dùng máu của mình để giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ thần dữ, nô lệ tội lỗi, những điều xấu, những điều ác mà con người làm ra. Chúng ta là những con người tự do, sinh ra để sống tự do, chứ không phải để làm nô lệ cho bất cứ ai, và nhất là không phải để làm nô lệ cho thần dữ, cho kẻ ác, cho dục vọng và những khuynh hướng xấu khống chế chúng ta.

Bài thư gởi tín hữu Rôma nhắc nhớ rằng chúng ta đã chịu phép rửa, đã được lãnh nhận hồng ân cứu độ. Con người cũ của chúng ta, con người do tội lỗi thống trị, đã bị huỷ diệt, bị chôn vùi, đã chết, thay vào đó có con người mới, đầy sự sống mới của Chúa Ktô Phục sinh. Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết, Người không còn chết nữa, sự chết không làm chủ được Người nữa. Và số phận của chúng ta cũng vậy, ta sẽ được giống Chúa. Sự chết không còn làm chủ được ta nữa. Nếu ta có chết vì già, vì bệnh hay vì tai nạn đi nữa, mai ngày ta cũng sẽ được phục sinh với Chúa.

Trong bài Tin Mừng, thánh Luca tường thuật cho chúng ta câu chuyện ngôi mộ trống. Những người phụ nữ, sau khi đã chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu, và đã cùng với một vài người đàn ông vội vã liệm xác Chúa, cho khỏi lỗi luật ngày Sabbat. Ngày thứ ba họ trở lại thăm xác Chúa, thì không thấy đâu nữa, nhưng chỉ thấy hai thiên thần hiện ra bảo rằng : Ngài không còn đây nữa, ngài đã trỗi dậy rồi, sao lại tìm Người Sống giữa kẻ chết.

Chúa đã sống lại rồi, chúng ta không đi tìm Chúa nơi mồ mã nữa. Người không thuộc về âm phủ, không ở trong âm phủ. Các thế lực của âm phủ không làm gì được Ngài. Ta hãy tìm Ngài nơi khác, và nơi khác đó không còn là ở đây hay ở kia, vì Ngài không còn bị ràng buộc bởi không gian nữa. Ngài đã sống lại, các ranh giới thời gian và không gian không kềm hãm được Ngài. Ngài đã về cùng Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì ở khắp mọi nơi, nên ta có thể gặp Ngài khắp mọi nơi trên đường đời của ta, miễn là ta tin Ngài đã sống lại và ao ước gặp gỡ Ngài.

Nhưng ta không gặp Ngài kiểu gặp người phàm nữa, vì dù đã sống lại trong thân xác, Ngài đã vượt qua kiếp phàm nhân. Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh, Ngài ở trong vinh quang, ở trong Thần Khí. Cũng giống như Chúa Cha, Ngài là Tình thương và Chân lý. Đâu có Tình thương và chân lý, đó có Ngài.

Khi ta yêu thương, thì có Chúa trong tình yêu của ta, khi ta tha thứ, có Ngài trong sự tha thứ của ta, khi ta hy sinh, có Ngài trong sự hy sinh của ta. Khi ta cố gắng sống trong chân lý, sống thật thà, không lừa dối, trong chân lý có Ngài, trong sự ngay thật của ta có Ngài. Điều chắc chắn đêm nay là, nếu ta có lòng tin, ta sẽ gặp Chúa cách đặc biệt trong thánh lễ, vì Giáo hội cử hành thánh lễ là đón tiếp Chúa đến trong mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Ngài. [Mục Lục]

5. NIỀM VUI VÀ BÌNH AN CỦA ĐỨC KITÔ PHỤC SINH (*)- ĐGM Giuse Nguyễn Năng

Anh chị em thân mến!

Đêm Chúa Phục Sinh, chúng ta ca hát Halleluia! Và Hội Thánh mời gọi chúng ta hãy vui lên, bởi vì Chúa đã sống lại. Nhưng phải nói rằng, chúng ta rất khó cảm nhận được niềm vui của Mùa Phục Sinh, của Đêm Vọng Phục Sinh này. Khi anh chị em mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta cảm nhận niềm vui ấy dễ dàng. Vì ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự sinh ra. Cha mẹ sinh ra con cái và người con được chào đời. Đó là niềm vui cho gia đình, cho xã hội, cho tất cả loài người. Trong Đêm Giáng Sinh, chúng ta cảm thấy mình vui một cách rất tự nhiên. Với Đêm Vọng Phục Sinh hôm nay thì chúng ta lại không có cảm nhận ấy. Phải nói rằng, cái cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh này, cái cảm nhận đầu tiên không phải là cảm nhận vui mừng mà là cảm nhận của một nỗi sợ hãi.
Bài Tin Mừng năm nay là Phụng vụ năm B theo thánh Macco (Mc 16, 1-7). Thánh Macco thuật lại câu chuyện về những người phụ nữ vào buổi sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, mang theo bình dầu thơm ra xức dầu cho Chúa, bởi vì chiều hôm qua Chúa chết vào giờ muộn quá, không kịp xức dầu thơm để ướp xác Chúa. Cho nên sáng ngày thứ nhất trong tuần, các bà mới vội vã ra đi, và khi các bà ra tới tận mộ thì các bà đã cảm nhận được điều gì đó. Chỉ trong 8 câu Tin Mừng, mà thánh Macco đã nhắc đi nhắc lại sự sợ hãi rất nhiều lần. Như là các bà ra mộ, nhìn thấy dấu chỉ của Thiên Thần đến loan tin Chúa đã sống lại, Chúa không còn ở trong mộ nữa. Thiên Thần trấn an: “Các bà đừng sợ! Bởi vì Chúa đã sống lại rồi”. Sau khi nhận được lời từ Thiên Thần nhắn với các tông đồ đến Galile và Chúa sẽ gặp các ông ở đấy thì các bà vội vàng chạy về. Vừa đi vừa run lẩy bẩy, kinh hoàng hết hồn hết vía. Những người phụ nữ đi mà không dám nói với ai điều gì. Bởi vì các bà sợ. Thánh Macco đã nói với chúng ta như vậy.

Cho nên, kinh nghiệm và cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh không phải là niềm vui, mà là sự sợ hãi. Tại sao lại sợ hãi? Sợ hãi là bởi vì, ở đây, con người đang đứng trước sự can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa. Người ta sợ vì nhiều lý do. Nỗi sợ tự nhiên, đó là con người đứng trước thiên nhiên, sóng cao biển cả, bão táp thì con người thấy mình nhỏ bé quá, con người bất lực nên con người sợ. Con người sợ vì mặc cảm tội lỗi, vì những việc làm xấu, sợ tiếng lương tâm oán trách, sợ Thiên Chúa phạt. Nhưng vẫn còn nỗi sợ khác, nỗi sợ của sự thánh thiện. Nỗi sợ khi mà mình đối diện với quyền năng của Thiên Chúa. Nỗi sợ khi mà đối diện với sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong lịch sử của nhân loại. Điều ấy đã xảy ra trong Đêm Vọng Phục Sinh này.

Trong Đêm Vọng Phục Sinh, những người phụ nữ sợ sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong nhân loại. Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã đi vào qui luật bình thường của con người, đó là có sinh có tử. Nhưng cho tới ngày hôm nay, dòng nhân quả, một diễn tiến tự nhiên của dòng đời đã bị cắt đứt, vì hôm nay, chính Thiên Chúa can thiệp và Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ trong cõi chết. Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, những người phụ nữ đã sợ. Chính cái cảm nhận sợ hãi này, là bằng chứng, cho dù không đủ, nhưng là bằng chứng rất mạnh cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa để Chúa Giêsu sống lại. Khi Chúa Giêsu sống lại thì Chúa đã chiến thắng sự chết. Chúa đã chiến thắng đau khổ, tội lỗi và hận thù!
Trong những ngày vừa qua, chúng ta đã suy niệm về những mầu nhiệm Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể và Chúa Giêsu hiến mình trên cây Thánh Giá. Chúng ta nói rằng, Chúa Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc sống mới, một qui luật sống mới. Đó là qui luật của sự quên mình để sống cho người khác, để phục vụ cho anh chị em của mình. Tuy nhiên, tình yêu ấy đã bị phản bội, tình yêu ấy đã bị kết án. Nhưng nếu chỉ có vậy mà thôi thì không ai dại gì mà yêu thương, không ai dại gì mà hiến mình thay cho người khác. Nhưng hôm nay, chúng ta thấy câu trả lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với chúng ta rằng: Những ai yêu thương, người ấy không bao giờ phải thất vọng. Thiên Chúa muốn khẳng định với chúng ta rằng: Thiên Chúa chiến thắng sự chết. Thiên Chúa là tình yêu đã chiến thắng hận thù. Chúa Giêsu mở đường cho chúng ta đi và ai đi theo Chúa Giêsu thì người ấy không bao giờ phải thất vọng. Đó là lời quả quyết, mạnh mẽ mà Thiên Chúa muốn nói với chúng ta trong Đêm Vọng Phục Sinh.
Chúng ta đang sống trong một thế giới, mà người ta gọi là, thế giới của nền văn minh sự chết. Người ta sống trong hận thù, trong chiến tranh, trong bạo lực, có thể chém giết nhau bất cứ lúc nào. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy những sự ích kỷ, những tham nhũng, những bóc lột, những chèn ép và cạm bẫy xảy ra hàng ngày trong xã hội và trên thế giới. Chúng ta đang sống trong xã hội mà người ta chỉ biết hưởng thụ, hay đi tìm khoái lạc. Một xã hội tội lỗi của cá nhân, tội lỗi của thế giới, tội lỗi của toàn thể nhân loại. Xã hội này, thế giới này, nhân loại này cứ theo qui luật bình thường như vậy thì chắc chắn sẽ đi tới tận diệt. Cuối cùng sẽ là cái chết. Đôi khi chúng ta cảm thấy thất vọng, cũng như dân Do Thái ngày xưa (x. Xh 14,15.15,1a), khi phía trước là biển cả, sau lưng là quân đội Ai Cập, họ cảm thấy cái chết gần kề, cảm thấy cùng đường, cảm thấy bế tắc, cảm thấy thất vọng. Nhưng chính trong sự thất vọng ấy thì Thiên Chúa đã can thiệp, đã mở đường cho dân Do Thái đi qua biển Đỏ. Đó là sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh báo trước cho sự can thiệp vĩ đại hơn nữa. Thiên Chúa đã mở đường cho chúng ta đi, Chúa Giêsu đã chết nhưng đã sống lại, cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã dẫn đường cho dân Do Thái đi thì hôm nay Chúa Giêsu cũng dẫn đường cho chúng ta đi. Và nếu chúng ta đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ tìm thấy niềm hy vọng, giữa một thế giới đầy chết chóc và tăm tốinày. Chúng ta hãy để cho Chúa dẫn mình đi, chúng ta hãy để cho Chúa thực hiện công trình, quyền năng của Người nơi cuộc đời chúng ta. Là những Kitô hữu, chúng ta phải là sứ giả của niềm hy vọng. Niềm hy vọng không phải ở nơi tiền bạc, nơi của cải vật chất. Niềm hy vọng không phải là sức mạnh của quân đội, chính trị, nhưng là niềm hy vọng của sự thật và tình yêu. Chúng ta tin vào Chúa, chúng ta hãy đi theo Chúa.
Hôm nay, Chúa Giê su đã sống lại, Chúa mở đường cho chúng ta đi. Chúa mời gọi chúng ta đi theo con đường ấy. Trong Đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta nhìn ngắm cây nến Phục Sinh. Đó là biểu tưởng hết sức ý nghĩa. Thế giới tăm tối này, nếu không có ánh sáng của Chúa thì vẫn chìm ngập trong bóng đêm, vẫn là tăm tối, vẫn là tội lỗi, vẫn là chết chóc. Nhưng ánh sáng của Chúa đã thắp lên để chiếu soi thế giới, chiếu soi cuộc đời của mỗi người chúng ta. Anh chị em hãy nhìn lên ánh sáng của Chúa Giêsu để mà tiến bước. Ánh sáng này, ánh sáng của chân lý, ánh sáng của tình thương Phúc Âm, luôn luôn bị những cơn lốc, những cơn gió của tội lỗi tìm cách làm tắt đi. Cơn gió của trào lưu tục hóa, luôn luôn muốn thổi mạnh lên thành bão táp để làm tắt ngúm cây nến Phục Sinh, là Lời Chúa, là tình thương của Chúa. Thánh Gioan lại khẳng định, bóng tối tìm cách trấn áp ánh sáng nhưng mà không bao giờ lại có thể làm tắt được ánh sáng của Chúa Giêsu. Ánh sáng của Chúa, một khi đã được đốt lên thì chúng ta cứ tin tưởng mà bước theo Chúa. Hôm nay Chúa Giêsu đã sống lại, đó là lời bảo đảm cho chúng ta rằng Ánh sáng của Chúa Giêsu sẽ còn mãi.
Khi Chúa Giêsu sống lại, Chúa đã đưa chúng ta sang bờ bên kia của biển Đỏ. Chúa Giêsu dẫn đưa chúng ta từ cõi chết tới cõi sống. Chúa Giê su đã đặt thế giới này trong tình trạng “bất khả hồi”, không bao giờ có thể chịu thua quyền lực của sự chết. Như thánh Phaolô nói: “Chúng ta đã được cùng chết với Chúa và cùng sống lại với Chúa qua bí tích Rửa tội”( x. Cl 2,12). Chúng ta ngồi đây, theo qui luật tự nhiên, chúng ta sẽ phải chết. Nhưng trên nguyên tắc, nhờ Bí tích Rửa tội, tất cả chúng ta đang ngồi đây, chúng ta đã có sự sống lại của Chúa Giêsu rồi. Đức Kitô Phục Sinh đang ở trong chúng ta. Thần Khí của Thiên Chúa là chính Chúa Thánh Thần đang ở trong chúng ta. Chúng ta được đưa vào thế giới của sự sống, thế giới của ánh sáng. Hãy giữ lấy ngọn nến mà anh chị em đã thắp lên ở trong tay của mình, ngọn nến của linh hồn. Chúng ta hãy để cho Tin Mừng của Chúa chiếu soi chúng ta, và cho dù chúng ta có phải chết về phần xác, nhưng đừng để tâm hồn của chúng ta chết trong tội lỗi.
Anh chị em thân mến!

Anh chị em hãy luôn luôn giữ ngọn nến linh hồn mình để trở thành sứ giả của niềm hy vọng. Anh chị em hãy công bố cho mọi người biết khi chúng ta theo Chúa thì chúng ta sẽ được sống. Anh chị em hãy gieo rắc niềm hy vọng trong cuộc đời đầy tăm tối, đầy lo âu, đầy hận thù, chết chóc, đầy những ích kỷ của thế giới này. Chúng ta phải sáng lên niềm hy vọng nơi chân lý Phúc Âm. Chúa Giêsu đã sống lại, chúng ta hãy hát mừng, mà chỉ có người nào thực sự cảm nhận niềm vui ấy, mới có thể hát lên “Halleluia!”. Cho nên từ cảm nhận nỗi sợ hãi, chúng ta tiến tới niềm vui và cảm nhận niềm vui mừng, bởi vì Chúa đã sống lại!

Trong niềm vui Chúa đã sống lại, tôi xin chúc mừng niềm vui tới tất cả mọi người, xin cho ngọn nến Phục Sinh này cháy sáng mãi trong cuộc đời của anh chị em. Xin niềm vui và bình an của Đức Kitô Phục Sinh ở lại mãi với tất cả mọi người chúng ta. Amen. [Mục Lục]

 

6. ÁNH SÁNG CHÚA KITÔ- Lm Nguyễn Ngọc Long

Trong đêm Phục Sinh mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sống lại, Giáo hội rước Cây nến Phục sinh cháy sáng bừng bừng tiến vào nhà thờ và hát ca ngợi: Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô!

Trong khung cảnh đêm tối chỉ một mình ánh sáng từ Cây nến Phục sinh tỏa ra hương vị thánh thiêng cả nhà thờ. Ánh sáng lung linh thật đẹp và thi vị! Nhưng phải chăng ánh sáng này có gì đặc biệt khác với ánh sáng từ các ngọn nến khác khi cũng được đốt lên? Tại sao Giáo hội lại xưng tụng đây là Ánh sáng Chúa Kitô từ Cây nến Phục sinh trong đêm này?

Trong đời sống nhiều khi chúng ta phải ngồi suy nghĩ hằng giờ, có khi cả tuần lễ, cả tháng trời mong tìm ra giải đáp cho một vấn đề. Nhưng vẫn trong vòng bế tắc… Bỗng dưng một tia sáng lóe lên trong tâm trí.. thế là trong người rộn lên niềm mừng vui vì ta tìm ra đáp số cho vấn đề đang suy nghĩ. Ánh sáng này thật lạ lùng huyền bí và có giá trị khôn lường. Cả tâm hồn lẫn trí khôn cùng làn da thớ thịt gân cốt mạch máu lúc này bừng lên sức sống mới. Trong người cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Trên gương mặt lộ hẳn niềm rộn vui. Có người cảm thấy sung sướng quá cười nói, ca hát, múa nhảy như lúc lên “cơn”! Ánh sáng này chiếu tỏa từ trong thâm tâm ra bên ngoài. Ánh sáng này đánh thức ta bừng dậy.

Tia sáng lóe lên trong tâm trí. Đó là điều bất ngờ xảy đến không ai có thể làm ra được. Tia sáng này không được bật lên như ngọn đèn điện, khi em bé đưa tay bật nút điện ở trên tường hay do bạn trẻ bật hộp quẹt lấy lửa hút thuốc. Không, tia sáng này không do chúng ta nối chế ra. Tia sáng này đến từ một nguồn ánh sáng khác. Tia sáng này là quà tặng, là ân đức từ trời cao chiếu xuống. Tia sáng lóe lên trong tâm trí!

Kinh thánh thuật lại công trình sáng tạo trời đất bắt đầu bằng việc Thiên Chúa tác tạo ánh sáng. Ngài phán: “Hãy có ánh sáng! Và liền có ánh sáng” (Gen 1,3). Ánh sáng này là hình ảnh Chúa Giêsu đến chiếu sáng trần gian như chính ngài khẳng định: “Thầy là ánh sáng trần gian” (Gioan 8,12) Ánh sáng Chúa Kitô: Lumen Christi!

Ngày nay những phong trào, những lý thuyết hứa hẹn mang lại ánh sáng, hào quang soi chiếu cuộc sống, tâm hồn con người luôn luôn thu hút mọi giới. Con người khao khát tìm về ánh sáng cho cuộc đời. Và những gì ngoài đường xá phố chợ đèn điện chiếu sáng thường gợi chú ý mọi người. Nhưng tia sáng bừng lên trong tâm trí không phải là món hàng bày bán trong cửa tiệm bán đồ điện. Người ta không thể bật tia sáng này lên như bật ngọn đèn neon trong nhà mình.

Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô không phải là sản phẩm như cây nến có thể mua trong cửa hàng đem về đốt lên trong phòng khách, trong bàn ăn, để tăng vẻ đầm ấm thân mật.

Không, Ánh sáng Chúa Kitô không dừng lại nơi đây như thế. Ánh sáng này dọi chiếu, soi đường chỉ phương hướng cho con người, như chính Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy là ánh sáng trần gian”.

Trong ánh sáng Chúa Kitô con người nhận ra nhau là anh em con một Cha trên trời. Cho dù khác nhau về nhiều mặt, nhưng trong ánh sáng Chúa Kitô tất cả mọi người cùng có nhân vị như nhau. Chúa Giêsu đến trần gian mang ánh sáng tình yêu đến cho mọi người. Ngài không dùng quyền hay làm phép lạ xóa tan bóng tối, nhưng Ngài không sợ bóng tối, trái lại soi chiếu vào trong bóng tối. Trong ánh sáng Ngài chúng ta nhận ra những khuyết điểm yếu kém đời mình.

Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô là ánh sáng lóe lên từ trong tâm hồn. Ánh sáng này có sức soi chiếu mang niềm vui mừng phấn khởi cho tâm hồn con người. [Mục Lục]

7. VUI LÊN TOÀN TRÁI ĐẤT- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ của Hội Thánh. Từ xa xưa, đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42) và buổi canh thức cử hành đêm nay, tưởng nhớ đến đêm Chúa sống lại, đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Vì trong đêm nay Giáo hội đợi chờ Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm kitô giáo.

Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.

Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần… Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.

Chúa Giêsu thành Nagiarét, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng” (Mc 16, 5) làm các bà vui mừng nhưng cũng làm “các bà khiếp sợ” (Mc 16, 5). Người thanh niên đó bảo bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê rằng: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa ”. (Mc 16, 6). Vâng Người đã sống lại rồi.

Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ đi “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ ” (Mc 16, 1-2), biết mình phận liễu đào tơ, chân yếu tay mền, khó khăn lớn nhất đối với các bà là tảng đá lấp cửa mồ, họ bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?” (Mc 16, 3). Đang khi bàn tán như vậy thì này kìa “tảng đá đã được lăn ra bên cạnh” (Mc 16, 4). Phải nói thật là những tâm tình u buồn và chán nản vì Chúa đã chết, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin thật rằng Chúa đã sống lại. Nghe tin ấy cho dù người thanh niên đã trấn an, các bà vẫn “chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16, 8).

Vâng, Chúa Kitô đã đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Đấng hằng sống” (Kh 1,8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.

Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Đây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Đấng Tạo Hóa.

Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.

Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô… Đấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen. [Mục Lục]

8. GẶP GỠ ĐẤNG PHỤC SINH- Trích Logo B

Giới y khoa Việt Nam có lẽ không thể quên chàng trai tên Nguyễn Đức Minh, một thanh niên 24 tuổi, qua đời ngày 30/7/1996. Vốn là một chàng trai gặp nhiều bất hạnh : bị bệnh tim bẩm sinh và năm 18 tuổi trong một tai nạn, anh hoàn toàn bị mù lòa.

Thế nhưng anh đã vượt lên trên sự bất hạnh để học xong văn hóa phổ thông và học được nhiều loại nhạc cụ. Ý thức được bệnh tật của mình càng ngày càng trầm trọng và khó qua khỏi, anh đã đến gặp bác sĩ trưởng khoa giải phẫu trường Y Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh để bày tỏ ý định hiến xác cho sinh viên thực tập. Đây là trường hợp hiến xác đầu tiên ở Việt Nam.

Sau khi qua đời, anh để lại di chúc, trong đó ghi lại điều anh mong ước : đó là được hiến xác cho ngành y học. Hiện nay xác của anh đang nằm tại trường Y Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh để cho các sinh viên nghiên cứu.

Nguyễn Đức Minh được báo chí ca tụng là người Việt Nam đầu tiên hiến cơ thể mình cho khoa học. Anh được tôn vinh là “người sống mãi”, vì đã hiến thân cho hạnh phúc của người khác.

Hành vi hiến xác của người thanh niên thật cao đẹp biết bao. Thế nhưng, sự hiến thân của anh chỉ dừng lại ở nơi thân xác của mình. Tất cả sự nghiệp anh để lại cho hậu thế chỉ là cái xác được bảo quản trong phòng thí nghiệm. Anh không thể vượt qua sự chết để cho người khác sự sống.

Anh sống mãi, nhưng chỉ sống trong hoài niệm và sự tưởng nhớ của mọi người.

Trong đêm cực thánh này, khi bước vào mầu nhiệm Phục Sinh, chúng ta sẽ gặp gỡ một Đấng đã vượt qua sự chết để ban cho chúng ta sự sống. Vâng, chúng ta sẽ gặp gỡ không phải là một xác chết, nhưng là một Đấng Phục Sinh. Ngài không hiện diện với chúng ta như một xác ướp quý giá, nhưng Ngài đã sống lại thật và đang đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Ngài chính là Đấng Phục Sinh, Đấng chiến thắng tử thần.

Đó chính là kinh nghiệm của các người phụ nữ đi thăm mộ Chúa vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, mà thánh Marcô đã thuật lại trong bài Tin Mừng. Cùng với nước mắt và lòng thương nhớ, các bà mang theo thuốc thơm để ướp xác Chúa. Các bà đi vào mồ và thấy một thiên thần trong vóc dáng một người thanh niên. Thiên thần đã cho các bà biết : “Các người đừng sợ ! Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nagiarét chịu đóng đinh. Nhưng Ngài đã sống lại và không còn ở đây nữa”. Như thế, các bà đi tìm “Chúa chịu chết”, nhưng đã gặp “Chúa sống lại”, đi tìm một xác chết nhưng đã gặp Đấng Phục Sinh.

Từ kinh nghiệm của các người phụ nữ trong bài Tin Mừng, chúng ta cũng tìm thấy một con đường để gặp gỡ Đấng Phục Sinh, một cách thức để sống Mầu Nhiệm Phục Sinh. Sống Mầu nhiệm Phục Sinh là gì, nếu không phải là đi tìm gặp Đức Kitô Phục Sinh và để cho Ngài bước vào cuộc đời của mình ?

Đi tìm Đức Kitô Phục Sinh

Khi chúng ta bước vào đêm huyền diệu này, là chúng ta bắt đầu bước vào cuộc hành trình đi tìm gặp Đức Kitô Phục Sinh theo bước chân của các người phụ nữ đi thăm mộ Chúa. Các bà đã e ngại và sợ hãi : e ngại tảng đá chắn cửa mồ, sợ hãi bóng dáng tử thần. Cũng vậy, có biết bao thử thách đang chờ đón những ai đi tìm gặp Đấng Phục Sinh. Có biết bao tảng đá đang che lấp niềm hy vọng của cuộc đời. Có biết bao sự sợ hãi đang vây bọc cuộc sống. Có bao nấm mồ đang chôn vùi niềm hy vọng. Những điều đó dường như luôn làm cho chúng ta sợ hãi và tuyệt vọng.

Tất cả chỉ vì ta chưa tin đủ vào sự sống lại của Chúa, ta vẫn chỉ muốn đi tìm một xác chết, giữa lúc ngài đã sống lại. Chúng ta chỉ biết dừng lại nơi cửa mồ của Chúa.

Đức Kitô phục Sinh đã mở toang cửa mộ. Không cần ai phải lăn tảng đá, cũng không cần ai xức dầu thơm cho một tử thi. Vì Chúa đã sống lại từ cõi chết và ngôi mộ không thể chứa nổi một Đấng đang sống và đang đi tìm gặp những kẻ Ngài yêu mến.

Đức Kitô Phục Sinh đi tìm gặp chúng ta

Qua các người phụ nữ, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hẹn gặp các môn đệ tại xứ Galilêa. Nhưng vì sợ hãi, các bà đã chạy trốn. Dù vậy, Chúa Phục Sinh vẫn gặp gỡ được các môn đệ và gặp gỡ nhiều lần sau khi sống lại từ cõi chết.

Quả thật, dù chúng ta không muốn gặp gỡ Chúa, Ngài vẫn đi bước trước để tìm gặp chúng ta. Ngài đến với chúng ta để ban cho chúng ta sự sống, lòng can đảm và sự bình an. Vì thế, sống mầu nhiệm Phục Sinh chính là để cho Đức Kitô phục sinh đến với đời ta và hoán cải đời ta. Ngài trao cho ta “một cái hẹn” để gặp gỡ ta vào một lúc nào đó và ở một nơi nào đó. Thế nhưng, chúng ta có thực sự muốn gặp Ngài, hay nhiều lần chúng ta đã để cho Ngài bị “lỡ hẹn” ?

Ngày kia, một người thanh niên tân tòng gặp lại người bạn ngoại giáo. Người bạn nói với người tân tòng một cách mỉa mai :

– Này anh bạn, từ ngày anh bạn theo đạo, anh bạn mất đi nhiều thứ đấy nhé !

Người tân tòng trả lời :

– Phải, từ ngày tôi gặp Chúa, tôi đánh mất rất nhiều : tôi đã làm mất đi cái xấu xa đê tiện, tôi làm mất đi trong tôi một thằng bợm nhậu và cờ bạc, tôi làm mất đi cái cảnh hỏa ngục đen tối trong gia đình mỗi khi tôi “say xỉn” trở về và đánh đập vợ con. Tôi cũng làm mất đi một tương lai bi đát đang chờ đón tôi và gia đình tôi.

Câu trả lời của người tân tòng trên chính là lời giải thích hay nhất về sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh trong cuộc đời chúng ta. Ước gì trong nước mắt, chúng ta luôn cảm nghiệm được niềm vui, trong sợ hãi xao xuyến, chúng ta vẫn can trường, vì chúng ta đang mở lòng ra để đón nhận Chúa Phục Sinh đang đến và hiện diện trong cuộc đời chúng ta. [Mục Lục]