Gợi ý mục vụ năm 2019: Đồng hành với các gia đình gặp khó khăn



GỢI Ý MỤC VỤ NĂM 2019:
ĐỒNG HÀNH VỚI NHỮNG GIA ĐÌNH GẶP KHÓ KHĂN

Ủy ban Mục vụ Gia đình / HĐGM Việt Nam

Bài 1: Chúa Giêsu dạy chúng ta đồng hành

Bài 2: Gia đình là nơi đồng hành đầu tiên

Bài 3: Quy luật đồng hành

Bài 4: Đồng hành với các gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn

Bài 5: Các bước của lộ trình đồng hành

Bài 6: Bước đi trong ánh sáng chân lý: Sự phân định

Bài 7: Cách thức phân định

 

Năm 2019, Hội Thánh tại Việt Nam – theo định hướng mục vụ Hội đồng Giám mục đã đề ra trong Thư Chung 2016 – giữa những mối quan tâm mục vụ sẽ quan tâm cách đặc biệt đến việc “Đồng hành với các gia đình gặp khó khăn”. Các Đức Giám mục của chúng ta, cách riêng, nêu ra ba loại đối tượng phạm trù: các gia đình di dân, các gia đình của các cặp hôn phối khác tôn giáo/tín ngưỡng, và các “gia đình” li thân, li dị tái hôn. Để Hội thánh thể hiện một sức bật mục vụ có tính tập trung, chúng tôi đề nghị điểm nhấn mục vụ chi tiết và cụ thể hơn theo thời gian của năm mục vụ tới:

Giai đoạn 1 (từ tháng 12/2018 – 3/2019): đồng hành với các gia đình di dân;

Giai đoạn 2 (từ tháng 4 – tháng 7/2019): đồng hành với gia đình các cặp hôn nhân khác đạo;

Giai đoạn 3 (từ tháng 8 – tháng 11/2019): đồng hành với các “gia đình” li thân, li dị tái hôn.

Chúng ta thiếu điều thiết yếu của mục vụ

Đức Thánh Cha Phanxicô, trong các Thượng Hội đồng Giám mục về Gia đình 2014 và 2015 vừa qua, khi nói về việc Đồng hành với các gia đình gặp khó khăn đã có nhận xét về sự khiếm khuyết này trong thực hành của Giáo hội hiện nay: “Những phúc đáp của cuộc tham vấn đã thực hiện cho thấy rằng trong các hoàn cảnh khó khăn hoặc nguy kịch phần đông người ta không nhờ đến các trợ giúp của mục vụ đồng hành, vì họ không cảm thấy được sự thông cảm, gần gũi, hay không thực tế,cụ thể. Bởi vậy, giờ đây chúng ta  nên tìm cách tiếp cận với các cuộc khủng hoảng hôn nhân bằngmột cái nhìn nhạy cảm hơn với những gánh nặng của đau đớn và thống khổ họ phải chịu” (Amoris laetitia, 234).

Trong thực tế các gia đình trong những lúc khó khăn, khốn khổ, chênh vênh không cảm thấy được Hội thánh quan tâm, giúp đỡ, họ cảm thấy cô đơn, và càng ngày càng rời xa Giáo hội. Hướng tới một viễn tượng Mục vụ Đồng hành có nghĩa là bắt đầu một cuộc hoán cải mục vụ, mà để đồng hành thực sự hiệu quả chúng ta cần thời gian, cần kiên trì, và hành động thực tế. Chương trình Mục vụ này cần phải được phác thảo cho tốt và đi đến chạm tới đời sống của người ta. Đức Thánh Cha Phanxicô xác định Đồng hành là tiêu chuẩn trọng tâm của Mục vụ gia đình, ngài nói:

“Hội Thánh muốn đến với các gia đình trong sự cảm thông khiêm tốn, và ước muốn của Hội thánh là “đồng hành với mỗi gia đình và mọi gia đình để họ có thể khám phá ra cách tốt nhất để vượt qua những khó khăn mà họ gặp phải trên hành trình của họ”[1]. Không phải chỉ đưa vào các kế hoạch mục vụ lớn lao với mối bận tâm chung chung đối với gia đình là đủ. Để các gia đình có thể mỗi lúc một trở nên là chủ thể tích cực của mục vụ gia đình hơn nữa, đòi hỏi ta phải có “một nỗ lực loan báo Tin mừng và huấn giáo hướng vào trong chính gia đình”[2], theo định hướng này” (AL 200).

Đồng hành là gì?

Đồng hành là việc Hội thánh khởi đầu đến với con cái mình để thiết lập một mối quan hệ bền vững và ngày càng tiến triển. Đồng hành không nhằm giải quyết tức thời các vấn đề cuộc sống, ngược lại, Hội thánh ý thức cần có thời gian và kiên nhẫn giúp người ta, cách riêng những người đang ở trong hoàn cảnh khó khăn hoặc “trái qui tắc”, được lớn lên đến mức trưởng thành trong tình yêu đích thật. Không để họ cô đơn lạc lõng, dưới ánh sáng Lời Chúa Hội thánh giúp phân định mục vụ để nhận ra sự thật của con người trong hoàn cảnh thực tế hiện tại còn xa với sự thật của tình yêu như Chúa muốn. Mục vụ Đồng hành cần giúp nhìn sâu vào hoàn cảnh thực tế, cả trong những trường hợp rất chông chênh, hoặc đã đổ vỡ, và ý thức luật tiệm tiến là tiêu chuẩn căn bản của sự phân định và sẽ không thực hành được nếu không có sự đồng hành. “Vấn đề là một lộ trình đồng hành và phân định nhằm hướng dẫn các tín hữu này đi đến ý thức về tình trạng của họ trước mặt Thiên Chúa” (AL 300). Chìa khóa của sự phân định này là sự thật của dây hôn phối, như là diễn tả đầu tiên của Lòng Thương Xót, được Tông huấn Amoris laetitia xem như là tiêu chuẩn căn bản (AL 211). Sau cùng, Hội thánh giúp các cá nhân tín hữu và gia đình họ hội nhập cách hài hòa trọn vẹn vào Thân Mình Đức Kitô toàn thể, tức là Gia đình Hội thánh. Hội nhập hoàn toàn, vào mối hiệp thông hội thánh, là mục đích sau cùng của Đồng hành. Hội nhập dựa trên cơ sở của bí tích Rửa tội như ơn huệ khởi đầu chung và hiệp thông Thánh Thể như là mục đích sau cùng của toàn thể tiến trình Đồng hành.

Từ đó, có thể gợi lên những đề tài suy tư mục vụ cho năm 2019 tập trung vào những hành động mục vụ trong Đồng hành, thể hiện qua các từ khóa sau đây: ĐỒNG HÀNH – PHÂN ĐỊNH – HỘI NHẬP, như sau:

  1. Chúa Giêsu dạy chúng ta đồng hành
  2. Gia đình là nơi đồng hành đầu tiên
  3. Qui luật của đồng hành: sự tiệm tiến theo thời gian
  4. Đồng hành với các gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn
  5. Các bước của lộ trình đồng hành
  6. Phân định để làm gì?
  7. Cách thức phân định
  8. Phân định cái gì?
  9. Hội nhập: trở về để hiệp thông trọn vẹn
  10. Chăm sóc những thương tích cản trở ta tham dự trọn vẹn
  11. Làm thế nào để khích lệ những người li dị tiến bước trên đường hướng về tham dự trọn vẹn?
  12. Hội nhập: xây nhà trên đá. Tiếp cận mục vụ toàn diện.

………………………………..

[1] Relatio Finalis (RF) 2015, 56.
[2] RF 2015, 89.


 

BÀI 1: CHÚA GIÊSU DẠY CHÚNG TA ĐỒNG HÀNH

Các vị chủ chăn của chúng ta hướng dẫn: “Chúa Giêsu một đàng đưa ra lí tưởng rất cao cả về đời sống hôn nhân và gia đình; đàng khác, Người chạnh lòng thương những người đau khổ trong đời sống hôn nhân, như trường hợp người phụ nữ xứ Samaria hoặc người nữ phạm tội ngoại tình. Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi chăm sóc mục vụ cho các gia đình, nhất là những gia đình gặp khó khăn.” (HĐGMVN, Thư Mục Vụ 2018, 2).

Mục vụ Đồng hành là trung tâm

Chúng ta đừng quan niệm cách hạn hẹp mục vụ như một thứ “dịch vụ” để chờ người ta tìm đến xin Hội thánh cung ứng những đề nghị, hay nghe rao giảng trong thánh lễ và gặp gỡ các nhóm hội đoàn trong giáo xứ, mà không biết cùng bước đi với con người trên cuộc hành trình lâu dài đòi hỏi kiên trì. Mục vụ đồng hành không có tham vọng đem lại những giải đáp tức thời cho nhiều vấn đề. Thực ra, tìm cung ứng những giải đáp mục vụ có thể giúp giải quyết mọi sự, trừ điểm trọng tâm là chúng ta tiếp tục không đồng hành với con người! Như thế là giản lược lòng thương xót chỉ còn là một sự uyển chuyển thích nghi luật lệ được cho là cứng rắn, và cách thế đó cũng là “duy luật”.

Đồng hành là cùng bước đi với ai đó trên một lộ trình qua đó giúp họ nhận ra một ánh sáng mới khả dĩ xây dựng cuộc sống. Cách thức đồng hành với các gia đình tương tự như con đường dự tòng của Hội thánh sơ khai: phải đồng hành trong một thời gian dài nhiều hay ít. Thực tế những người dự tòng đã phải chuyển từ một cuộc sống ngoại đạo rất xa Tin mừng để bước vào giao ước Thanh tẩy của Đức Kitô. Đức thánh cha Phanxicô xác định Đồng hành là một tiêu chuẩn trung tâm của mục vụ gia đình.

Chúa Giêsu dạy chúng ta đồng hành

Trước hết, chúng ta không được hiểu Đồng hành như là một chiến lược giao tiếp với thế giới. Ngược lại, đó là phương pháp chính Đức Giêsu đã chọn để gặp gỡ chúng ta gần như tình cờ và tỏ cho chúng ta thấy con đường đi của Chúa Cha. Chính Người, là vị Thầy dạy chúng ta nghệ thuật “đồng hành” mà mọi môn đệ cần phải học. Chúng ta nhớ lại, chẳng hạn, sau khi sống lại Chúa Giêsu đồng hành với các môn đệ đi về Emmau (Lc 24,13-33) Người chỉ cho chúng ta những tham chiếu cho mọi lộ trình chung: Lời Chúa và bí tích, là tất cả sự hiệp thông của Giáo hội, tiêu biểu là Bữa ăn Thánh Thể từ đó hai môn đệ đã quay trở lại Giêrusalem trong đêm. Chúa Kitô Phục sinh “đi trước” các Tông đồ mở ra cho họ các con đường trên đó họ gặp gỡ mọi người. Nước của Người là ở những mối quan hệ cá nhân vốn luôn khởi đầu âm thầm nhưng hàm chứa một sức sống bên trong khả dĩ làm biến đổi thế giới.

Như thế, Đồng hành là một cách thức đặc biệt để loan báo Tin mừng, có nối kết nội tại với việc bước theo Đức Kitô, vị Tôn sư. Thánh Giáo hoàng Gioan-Pholô II nói rằng: “Nối bước theo Chúa Kitô là nền tảng thiết yếu và nguyên thủy của nền luân lí Kitô giáo: tựa như dân Israel xưa cất bước theo Chúa và đã được Chúa dẫn dắt  qua hoang địa tiến về Đất Hứa (x. Xh 13,21), người môn đệ cũng phải nối bước theo Đức Giêsu và được Chúa Cha lôi kéo để đến với Người (x. Ga 6,44)”[1]. Vấn đề ở đây là đời sống gắn bó với một con người, là Giêsu Kitô, từ đó mà người ta hiểu ý nghĩa của lề luật và tư tưởng. Đồng hành phải bắt đầu từ cái nhìn của Chúa Giêsu. Người “đã nhìn những người nam và người nữ mà Người gặp gỡ, với tình yêu và sự dịu dàng, đồng hành với những bước đi của họ bằng sự thật, lòng kiên nhẫn và tình thương xót, trong khi loan báo những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa” (AL 60). Chúa Giêsu nhìn “thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, “như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36). Mọi bận tâm mục vụ của Hội thánh trước hết phải bắt nguồn từ ánh mắt nhìn này.

… với một tình yêu đích thật

Nguyên lí của Đồng hành Kitô giáo được Đức Thánh cha Phanxicô nhắc lại lời của Đức Bênêđictô XVI: “Khởi đầu của cuộc đời Kitô hữu không phải là một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao siêu, nhưng là gặp gỡ một biến cố, một con người, sự gặp gỡ đó đem đến cho cuộc đời một chân trời mới và một hướng đi quyết định” (EG 7DCE 1). Từ cuộc gặp gỡ đó toát lên “vẻ đẹp của tình yêu cứu độ biểu lộ nơi Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh” (EG 36), một tình yêu thật Đức Kitô hiến trao cho chúng ta với lí lẽ của nó: một khi đã gặp gỡ xin cùng bước đi trên lối đường cuộc đời. Đồng hành để dần nhận ra sự thật về một tình yêu, để tình yêu đó tăng trưởng đến mức trưởng thành, và đáp lại tình yêu của Đấng Mục tử nhân lành: “Tôi đến để chúng được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

“Điều quan trọng là đón nhận và đồng hành với họ bằng sự kiên nhẫn và tế nhị. Đó là điều mà Đức Giêsu đã làm với người phụ nữ Samaria (Ga 4,1-26): Người đề cập đến khát vọng tình yêu đích thật của chị, để giải thoát chị khỏi những gì làm u tối cuộc đời chị và đưa chị đến niềm vui trọn vẹn của Tin mừng” (AL 299). Bắt đầu từ lòng khát khao một tình yêu đích thật, và khát khao đó là sự thật ghi dấu suốt cuộc hành trình và phải dựa trên đó mà vượt qua những cản ngại để đạt đến viên mãn. Cần nhớ ba nguyên tắc rất quan trọng cho mục vụ mà Đức Giáo hoàng Phanxicô yêu cầu.

  1. Tình yêu đích thật (cf. chương 4 AL 89-164) là sợi chỉ đỏ dẫn dắt mọi cuộc Đồng hành. Tình yêu biết “kiên nhẫn, nhân hậu,…, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (cf.1Cr 13,4-7).
  2. Hành trình này gắn liền với khát vọng đặc biệt của con tim đầy tình cảm. Khát vọng của con tim ấy cần được giáo dục khởi đi từ ánh sáng của tình yêu thật. Tiến trình này là quá trình huấn luyện để trưởng thành tình cảm, rất quan trọng cho chọn lựa tự do bậc sống.
  3. Đồng hành gắn liền với đời sống bí tích, nguồn ân sủng hoạt động bởi Đức Giêsu Kitô. Bí tích Rửa tội khởi đầu biểu lộ một chi thể ‘thuộc về’ Thân Mình Chúa Kitô yêu cầu được đồng hành; hiệp thông trong bí tích Thánh Thể kết thúc mọi hành động và biểu lộ sự viên mãn thuộc vể Hội Thánh. Hoán cải đời sống nhằm thoát khỏi hoàn cảnh tội tình khốn khổ là kết quả mong muốn của mục vụ Đồng hành.

Đức Giêsu đã bắt đầu đồng hành với chị phụ nữ Samaria bằng việc nhắc đến “tánh bản thiện” vốn khát mong một tình yêu đích thật Thiên Chúa đã gieo mầm trong tâm hồn mọi người nam và nữ. Từ chỗ khơi dậy lòng khát khao này, Đức Giêsu đã dẫn chị đi đến chỗ nhận ra sự dữ của những điều chị đã làm và của hoàn cảnh lầm lạc của chị, từ đó mở ra cho chị con đường giải thoát, con đường hoán cải. Trong tình cảnh hiện tại của chị, quả thật, không có những nhân tố thiện hảo dẫn lối đến với Tin mừng, vẫn còn những cản trở lớn ngăn chặn chị đạt đến cuộc sống viên mãn. “Nhận thức về tội được thức tỉnh trước tình yêu nhưng không của Đức Giêsu” (AL 64).

Câu hỏi để giúp suy tư và thảo luận

  1. Anh chị hãy thuật lại cuộc gặp gỡ của Chúa với hai môn đệ trên đường về Emmau, và rút ra ý nghĩa chủ chốt của việc Đồng hành.
  2. Anh chị có nhận thấy các nguyên tắc mục vụ Đồng hành trong câu chuyện Chúa Giêsu gặp gỡ chị phụ nữ Samaria thể hiện như thế nào không, để từ đó cộng đoàn Hội thánh là hình ảnh bí tích của Chúa tiếp tục đồng hành với các cá nhân hay gia đình trong hoàn cảnh khó khăn ?
  3. Anh chị có nghe chăng tiếng kêu của những con người, giống như của anh mù ở Giêrikô (Lc 18,35-42), bị thương tích trong các gia đình quanh mình “Lạy Chúa, xin thương xót tôi!” và đáp lại như thế nào?

—————————–

[1] Gioan-Phaolô II, Thông điệp Veritatis splendor, 19.

 


 

BÀI 2: GIA ĐÌNH LÀ NƠI ĐỒNG HÀNH ĐẦU TIÊN

Gia đình là nơi ta được đồng hành đầu tiên

Trong thực tế chúng ta rất thường nghĩ rằng các giám mục, linh mục hay tu sĩ mới là người làm nhiệm vụ Đồng hành với con người. Thực ra, không phải như vậy, vì nơi chốn đầu tiên ta được đồng hành là gia đình. Chính mẹ hay cha, và đôi khi là ông/bà, là người đầu tiên đã nắm tay dẫn đưa ta đến nhà thờ dự lễ, dạy ta biết yêu kính Chúa, biết Hội thánh, biết đức tin cho ánh sáng soi dẫn bước chân ta đi vào cuộc đời.

Đức Thánh cha Phanxicô nói: 

“Gia đình không thể khước từ mình chính là nơi nâng đỡ, đồng hành, hướng dẫn con cái, cho dù cần phải tái tạo lại các phương pháp và tìm cho ra các nguồn lực mới. Cha mẹ cần phải dự tính xem mình muốn trao cho con cái những gì”[1].

Tình yêu thương được trao ban và lớn lên trong gia đình, đó là môi sinh tự nhiên cho đức tin được thông truyền và củng cố.

“Cha mẹ muốn đồng hành đức tin với con cái mình thì cần chú ý đến những biến chuyển của chúng, vì họ biết kinh nghiệm tâm linh không thể áp đặt nhưng được đề nghị trong tự do”[2]. Nếu không có sự đồng hành tự nhiên để cho tình thương yêu triển nở mỗi ngày, ngay cả giữa hai vợ chồng, “cuộc sống gia đình chúng ta sẽ không còn là một nơi của cảm thông, đồng hành và khích lệ thay vào đó sẽ là một nơi thường xuyên căng thẳng và công phạt lẫn nhau”[3].

Đồng hành với gia đình qua các gia đình

Với Đức Thánh Cha chúng ta xác tín rằng gia đình chính là chủ thể của việc loan báo Tin mừng trong mục vụ gia đình[4]. Cụ thể, điều đó có nghĩa là chúng ta phải nhờ gia đình để đồng hành với các gia đình khác. Đó chính là ơn gọi truyền giáo của gia đình Kitô hữu[5]được Chúa kêu gọi đi ra để đồng hành trong đức tin và cuộc sống với những người sống quanh họ qua sự gần gũi giúp đỡ hầu cuộc sống gia đình họ phong phú ngập tràn hiện diện của Thiên Chúa. Không có bước đầu tiên này, mục vụ đồng hành chỉ còn là lí thuyết thiếu sự nâng đỡ thiết yếu từ phía cộng đoàn Hội thánh cụ thể.

Nhiều gia đình đã nhận ra sứ mạng này Thiên Chúa đã trao phó cho họ. Thế nhưng, Giáo hội địa phương vẫn còn chưa sử dụng đến mạng lưới các gia đình cho đủ khi đối diện với nhiệm vụ đồng hành này. Hơn nữa, cần thiết phải có một sự huấn luyện thích hợp đối với các gia đình chủ thể truyền giáo này để phát huy hữu hiệu và có trách nhiệm. Một điều rất ý nghĩa và quan trọng là các gia đình này sống trong cùng một khu vực cần liên kết với nhau thành cộng đoàn nhỏ, như các liên gia trong các giáo khu của giáo xứ, theo mô hình các Cộng đoàn Giáo hội Cơ bản (CĐGHCB). Bởi lẽ Hội thánh là sự Hiệp thông của các cộng đoàn được thể hiện sẽ là chứng từ và lời loan báo Tin mừng có sức thuyết phục nhất.

Trong tình hiệp thông Hội thánh mà gia đình được hít thở thường xuyên trong cộng đoàn giáo xứ qua sự đồng hành với các Cộng đoàn nhỏ, các khó khăn, thách đố, và cả các thương tích trong gia đình dần dần được chữa lành vì có Đức Kitô là Đầu và là Lương y thần linh hiện diện ở trung tâm. Hội thánh Chúa Kitô là một “nơi gặp gỡ ưu việt” giữa Thiên Chúa và dân mới của Người. Hội thánh là “bí tích của sự kết hợp thâm sâu con người với Thiên Chúa”. Hội thánh cũng là “bí tích của sự hiệp nhất nhân loại”. “Hiệp thông và sứ vụ kết hợp với nhau không thể tách biệt, chúng thâm nhập và bao hàm lẫn nhau”. Hiệp thông “vừa là nguồn mạch vừa là kết quả của sứ vụ”. “Hiệp thông phát sinh sứ vụ và sứ vụ được hoàn thành nơi Hiệp thông”[6]. Sự hiệp thông này thường xuyên được sống trong các cộng đoàn tín hữu địa phương. “Hội thánh Đức Kitô thật sự hiện diện trong mọi cộng đoàn tín hữu địa phương hợp pháp, là những cộng đoàn luôn gắn bó với các mục tử của mình, và Tân ước cũng gọi đó là các Gáo hội”[7].

Đó là ý nghĩa của một hiện diện mới mẻ của Hội thánh tại Á châu ngày nay.

Hội thánh chính là sự Hiệp thông của các Cộng đoàn nhỏ, đồng hành với gia đình và cùng với gia đình loan báo Tin mừng “trong gia đình” và đi ra loan báo Tin mừng cho các gia đình khác.

Câu hỏi gợi ý suy tư và thảo luận

  1. Bạn hãy chia sẻ và kể kinh nghiệm đầu đời của bạn về Hội thánh và về Chúa của đức tin của bạn.
  2. Những tổn thương nào thường xảy ra do các thành viên trong gia đình (ông bà cha mẹ, chồng vợ, con cái, anh em chị em…) vô tình hay hữu ý gây ra cho nhau? Bạn chia sẻ các thương tích ấy có được quan tâm chăm sóc và chữa lành trong gia đình mình hay không? Và trong đại gia đình ? trong cộng đồng Giáo hội nhỏ thân tình (liên gia) của bạn chẳng hạn?
  3. Cộng đoàn Giáo hội nhỏ hay liên gia của bạn có Chúa Giêsu với Lời của Người làm trung tâm trong khi đồng hành với các gia đình và với nhau hay chưa?
  4. Tính sứ vụ và hiệp thông với Hội thánh hoàn cầu và Hội thánh địa phương trong đời sống gia đình và cộng đoàn nhỏ liên gia của bạn thể hiện thế nào?

……………………………..

[1] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Amoris laetitia (AL) 260.
[2] AL 288.
[3]AL 108.
[4] Cf. AL 200.
[5] Cf. AL 208, 230, 289.
[6] Gioan-Phaolô II, Ecclesia in Asia (EA) 24.
[7] LG 26.


 

BÀI 3: QUI LUẬT ĐỒNG HÀNH: TIỆM TIẾN THEO THỜI GIAN

Trong khi đi đường người ta cần có luật, trong khi hành hương lề luật là chân lí vì thế tuyệt đối cần thiết. Như thế luật không phải là giới hạn mà là kim chỉ nam hướng dẫn để người ta đi đường không bị lạc. Lề luật bởi thế là một trợ giúp cho tự do của con người trong khi tìm kiếm ý nghĩa và hướng đi cho cuộc sống, hướng đến cùng đích là Thiên Chúa. Lề luật có vai trò như nguyên tắc cho mọi sự phân định cần thiết để cất bước hành trình.

Hội thánh khi đồng hành với con người ý thức rằng con người cần phải biết Lề luật của Chúa nói chung, nhưng điều đó không đủ, còn cần phải có một sự “đồng điệu” giữa con người và sự thiện hảo đích thực[1]. Hiểu như thế để tránh không rơi vào thái độ duy luật bóp chết mọi sáng kiến riêng tư trong khi tăng trưởng.

Trong khi liên hệ tới luật luân lí, có một luật đặc biệt quan trọng cho việc đồng hành, đó là “luật tiệm tiến”, vốn liên hệ tới khoa sư phạm nhằm giúp con người nhận thức luân lí từng bước và nội tâm hóa lề luật. Luật luân lí ấy không ngừng được khơi dẫn dọc dài cuộc đồng hành. Ý nghĩa của nó trong đồng hành là nền tảng cho cuộc lữ hành theo chân Chúa Kitô.  

Luật tiệm tiến trong Đồng hành

Ta không được đồng nhất “luật tiệm tiến” với “sự tiệm tiến của luật” vốn được hiểu là có “những mức độ khác nhau và hình thức khác nhau của giới luật Chúa cho những người và hoàn cảnh khác nhau”[2]. Sự hiểu lầm ấy tai hại ở chỗ người ta thỏa hiệp qua việc thích ứng những đòi hỏi mệnh lệnh của giới luật với khả năng hạn hẹp chủ quan của con người. Kiểu như khi ta nói: giới luật này quá cứng rắn với bạn, nên tôi phải ban bố một giới luật khác cũng hiệu lực cho trường hợp của bạn. Làm thế có nghĩa là đã lấy khả năng con người làm thước đo của ân sủng, tức là rơi vào chủ nghĩa Pêlagiô. Giới luật Chúa thực ra không có trường hợp ngoại lệ. Vấn đề không phải là miễn chuẩn giữ một giới luật quá sức, bởi vì không giữ luật là con người đã bị kết án hại thân rồi; chính tội trọng làm tổn thương trước hết phẩm giá luân lí người phạm tội. Đức thánh cha Phanxicô xác nhận rằng «luật cũng là quà tặng của Thiên Chúa nhằm để chỉ đường, một quà tặng cho tất cả mọi người không trừ một ai để người ta có thể sống với sự trợ giúp của ân sủng»[3]. Lề luật không nên hiểu như một cái gì áp đặt từ bên ngoài, nhưng đúng hơn như là một hành trình nội tâm hướng đến sự thiện hảo.

Như thế, nói rằng không có trường hợp ngoại lệ đối với giới luật luân lí duy nhất có giá trị cho mọi người cũng có nghĩa là không có ai bị đặt ở bên lề cuộc đồng hành. Và bất kì sự đồng hành hay phân định nào «sẽ không bao giờ được phép bỏ qua những yêu sách của sự thật và bác ái theo Tin mừng như Hội thánh đề nghị» (AL 300). Sống những đòi hỏi của sự thật và bác ái là hệ quả của một sự hoán cải và tin vào Tin mừng Chúa Giêsu Kitô. Giữa tình trạng tội lỗi và sống trong Đức Kitô, như là giữa tình trạng chết và sống mà ta phải chọn, không có những mức độ khác nhau. Người phụ nữ Samaria được yêu cầu không chỉ thay đổi đời sống (rời bỏ tình trạng hiện tại sống chung ngoài hôn nhân của chị: “người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (Ga 4,18)), nhưng trước hết là nhìn nhận Đức Kitô, nhờ Người chị thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật (cf. Ga 4,23-24). Chính đó là đời sống thật của chị, một đời sống không chấp nhận có thang cấp nhiều mức độ. Một khi đã đạt được chân lí sự sống, người ta mới bước lên con đường thăng tiến mỗi ngày trong tư cách một kẻ đang sống. Nơi chị phụ nữ Samaria, điều này có nghĩa là hoán cải trở thành chứng tá của Thiên Chúa trước các đồng bào của chị. Trong cuộc sống dưới ánh sáng lề luật này, ta thấy tất cả ý nghĩa của việc đồng hành là giúp đỡ con người trong quá trình thăng tiến trong ân sủng. Có ân sủng ban đầu giúp sức, ta có thể đáp trả tình yêu thương. Ở đâu có khát khao, ở đó có một mạch nước phun trào ra sự sống muôn đời (cf. Ga 4,14).

Tin vào quyền năng của ân sủng

Nếu chấp nhận có sự “tiệm tiến của lề luật” thì đồng hành trở thành vô nghĩa, vì người ta không còn xem ân sủng như khởi đầu của đồng hành, không còn xem hoán cải là trọng tâm và nên thánh là cùng đích nữa. Không cần hoán cải, không nên thánh nhờ ân sủng, đồng hành không còn là việc mục vụ nữa mà chỉ là một sự bầu bạn nhân loại hay liên đới mơ hồ nào đó thôi vì thiếu mục đích. Cần phải nhấn mạnh đến cùng đích vì đó là đặc trưng của tất cả tinh thần mục vụ. Chúng ta không được hiểu hình ảnh ví von Giáo hội như một bệnh viện dã chiến theo nghĩa Giáo hội chỉ lo chữa lành những vết thương cấp thời hiện tại của con người mà thôi. Kiểu mục vụ như thế cuối cùng sẽ thất bại thôi vì chỉ lo hoàn tất viễn ảnh thần linh bằng những việc phàm nhân hữu hạn. Trái lại, chúng ta phải luôn luôn nhắm tới việc nên thánh, và đừng bao giờ cho rằng sự thánh thiện là lí tưởng quá cao vời mà những người như chị phụ nữ Samaria kia không thể với tới được. Cùng với các Đức thánh cha chúng ta vẫn rất tin tưởng vào sức mạnh của ân sủng: «Tuy nhiên, một người đã kết hôn có thể sống mức độ cao nhất của đức ái. Vì thế, người ấy có thể “đạt tới sự hoàn thiện phát xuất từ đức ái, nhờ trung thành sống tinh thần các lời khuyên Phúc Âm. Sự hoàn thiện như thế là điều có thể và mọi người nam nữ đều có thể đạt được”[4]» (AL 160).

Câu hỏi gợi ý suy tư và thảo luận

  1. Anh chị hiểu lề luật Chúa để làm gì? Cách riêng, giới luật hôn nhân đơn nhất và bất khả phân li có ý nghĩa gì?
  2. Tại sao không thể chấp nhận sự “tiệm tiến của lề luật”? Đâu là ý nghĩa của khoa sư phạm của Thiên Chúa trong “luật tiệm tiến”?
  3. Tại sao không nhằm tới việc “nên thánh” là ta đã tự kết án mình?
  4. Anh chị có kinh nghiệm hay có biết một câu chuyện một người nào đã gặp gỡ Chúa và hoán cải trên đường nên thánh không?

………………………………….

[1] Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis splendor, 6/8/1993, 64.
[2] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22/11/1981, 34.
[3] Phanxicô, Amoris laetitia (AL) 295.
[4] Gioan Phaolo II, Huấn giáo thứ tư (14.4.1982).



BÀI 4: ĐỒNG HÀNH VỚI CÁC GIA ĐÌNH GẶP HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN


Những người gặp nạn bị thương cần được tiếp cận cứu giúp như trong dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu. Những gia đình gặp khó khăn trong tình trạng chông chênh cần được đồng hành sát sao hơn. Đức thánh cha Phanxicô đặc biệt nhạy cảm mời gọi các cộng đoàn Hội thánh gia tăng đáp lại những người này bằng sự đồng hành:

“Hội thánh cũng phải đồng hành bằng sự ân cần chăm sóc những đứa con yếu đuối nhất của mình, vốn ghi dấu bởi tình yêu bị tổn thương vàlạc lối, bằng cách khôi phục lại cho họ niềm tin và hi vọng, như ánh sáng của một ngọn hải đăng hoặc một ngọn đuốc được đặt giữa mọi người hầu soi sáng cho những người đã lầm đường lạc lối hoặc đang ở giữa bão tố cuộc đời” (Amoris laetitia (AL), 291).

Điều lưu ý mục vụ đầu tiên là làm sao để giúp cho con người cảm nhận sự hiện diện gần gũi của Chúa Giêsu trong hoàn cảnh khó khăn, đau khổ của họ. “Cần đón tiếp và trân trọng nỗi đau khổ của những người phải gánh chịu li hôn, li dị hoặc bị ruồng bỏ một cách bất công, hoặc buộc phá vỡ cuộc chung sống do sự ngược đãi của người phối ngẫu kia” (AL 242).

Những hoàn cảnh đặc biệt nghiêm trọng cần quan tâm đầu tiên là:

– Những người di dân. Trong việc đồng hành với người di dân đòi hỏi phải có một mục vụ chuyên biệt cho các gia đình di dân lẫn cho cả các thành viên của gia đình còn ở lại nơi nguyên quán của họ (AL 46).

– Những người sống cuộc hôn nhân hỗn hợp có thể góp phần cho trào lưu đại kết, nên tìm cách để có sự cộng tác chân tình giữa thừa tác viên Công giáo và thừa tác viên không Công giáo, từ thời gian chuẩn bị hôn nhân cho tới lễ cưới (x. Familiaris consortio, 78). Về hôn phối khác đạo hay khác tín ngưỡng, đây là nơi ưu việt cho cuộc đối thoại liên tôn, sự tự do tôn giáo là điều thiết yếu cần được tôn trọng, nhưng người Công giáo phải có khả năng đem Tin mừng cắm sâu vào gia đình, như thế mới mong có thể giáo dục con cái họ theo đức tin Kitô giáo (x. AL 247-248).

– Những gia đình đang tang chế (Al 253-258)… Những trường hợp khó khăn đặc biệt khác như hôn nhân đổ vỡ, gia đình với cha/mẹ đơn thân, quan tâm cách riêng tới những người li hôn và là nạn nhân trong nạn phá thai.

Từng người, từng trường hợp cần quan tâm nâng đỡ cách khác nhau. Cộng đoàn nhỏ ở địa phương và các cặp vợ chồng khác đồng hành với những gia đình gặp khó khăn là điều rất quan trọng và có ý nghĩa, biết đáp ứng các nhu cầu mục vụ cấp bách liên hệ đến thực tế nhân bản của đời sống các gia đình khó khăn, không để họ cô đơn, không định hướng, không được nâng đỡ.

– Đối với trường hợp li hôn, Đức thánh cha khuyên những tín hữu này không “bước thêm một bước nữa” đồng thời tìm đến với Hội thánh để được đồng hành sống đức tin phù hợp. Trong thực tế, nói chung, hiếm có những người chịu cảnh sống đơn độc sau bi kịch li hôn đau đớn, mà sống gần gũi với cộng đoàn. Những người li thân sống đúng như Giáo luật định (đ.1152-1157), thực tế cũng hiếm và cũng không có được sự đồng hành nào từ phía cộng đoàn thân quen. Thật đáng tiếc phải nhìn nhận thực trạng li hôn phổ biến hiện nay. Sau li hôn, hoặc họ bị té ngã rơi sâu vào nỗi cô đơn hoặc dấn thân vào một cuộc kết hợp mới. Đó là những hoàn cảnh khó khăn xảy ra nhiều mà Hội thánh cần ưu tiên quan tâm đồng hành .

– Những người li dị không tái hôn được nhìn nhận thường là «những chứng nhân của lòng trung thành trong hôn nhân, cần được khích lệ tìm thấy trong Thánh Thể lương thực nâng đỡ tình trạnghiện tại của họ. Cộng đoàn địa phương và các mục tử phải đồng hành với những người này một cách ân cần, nhất là khi họ có con cái hoặc lâm cảnh nghèo túng cùng cực» (AL 242). Con cái của họ phải chịu những chấn thương trầm trọng với nhiều hậu quả khôn lường, là những nạn nhân vô tội đáng thương nhất, cũng ít thấy có những giúp đỡ thích hợp từ phía Giáo hội. Đức thánh cha rất quan tâm và muốn Hội thánh “không ngừng lên tiếng nhân danh những con người dễ bị tổn thương nhất, đó là những đứa con thường phải âm thầm đau khổ” (AL 246). Các trung tâm, các văn phòng tham vấn về đời sống gia đình, các cộng đoàn Giáo hội cơ bản, các hiệp hội tại giáo xứ, giáo phận, cần quan tâm đến khía cạnh mục vụ đặc biệt này.

Kết luận

Mỗi bước đồng hành có tốt hay không là do người ta tiến gần hơn hay xa rời mục đích sau cùng, là hội nhập trọn vẹn vào Hội thánh qua bí tích Giao hòa và Thánh Thể. Thế nhưng, trong thực tế nhiều trường hợp người ta không thể tái hợp với người phối ngẫu trước; cho dẫu thế, cũng không bao giờ thất vọng mà ngưng tiến tới trong hành trình Hiệp thông. Khả năng đó đã hàm ẩn ngay từ đầu trong lời hứa hôn, với sự trợ giúp của Chúa Giêsu, họ nói tiếng xin vâng đến trọn đời “bất chấp tất cả”. Chính ân sủng của bí tích hôn phối hoạt động trong hướng đó, mời gọi họ xây dựng trên nền tảng Chúa đã thiết lập những mối kết hợp duy nhất khả dĩ bảo vệ gia đình. “Sự kết hợp đã làhiện thực và không thể rút lại, được Bí tích Hôn nhân xác nhận và thánh hiến” (AL 218). Những người trong hoàn cảnh “trái qui tắc” được giúp phân định và được Chúa thúc đẩy bước trên con đường hoán cải và được tái sinh như người con hoang đàng trở về được Cha chạy ra đón nhận: cho “xỏ nhẫn, mặc áo đẹp” có nghĩa là, đối với Chúa họ vẫn còn phẩm giá của con cái và của người hôn phu/hôn thê.

Câu hỏi gợi ý suy tư và thảo luận

  1. Anh /chị cho biết những khó khăn, thách đố nào có thể gặp trong các gia đình di dân. Anh chị, gia đình, cộng đoàn Giáo hội địa phương nên làm gì, làm thế nào để giúp đỡ anh chị em ấy?
  2. Anh/chị cho biết những khó khăn, thách đố nào có thể thường gặp trong cuộc sống hôn nhân – gia đình của các cặp hôn nhân hỗn hợp (với người Tin lành,…) và với người khác đạo. Hội thánh và các cộng đoàn Hội thánh địa phương đã làm gì và sẽ làm gì để đồng hành với họ?
  3. Các mục tử và cộng đoàn Hội thánh địa phương đã đối xử thế nào với những anh chị em li dị, li dị tái hôn, hay sống một kết hợp mới, “trái qui tắc”? Làm thế nào để giúp họ hội nhập ngày một sâu xa hơn vào đời sống của Giáo hội?


BÀI 5:
CÁC BƯỚC CỦA LỘ TRÌNH ĐỒNG HÀNH


Khởi đầu Hội thánh đồng hành đến với con cái mình nhằm thiết lập một mối quan hệ bền vững ngày càng tiến triển. Hội thánh ý thức cần có thời gian và kiên nhẫn giúp người ta, cách riêng những người đang ở trong hoàn cảnh khó khăn hoặc “trái qui tắc”, được lớn lên đến mức trưởng thành trong tình yêu đích thật. Dưới ánh sáng Lời Chúa Hội thánh giúp phân định để nhận ra sự thật của con người trong hoàn cảnh thực tế hiện tại còn xa với sự thật của tình yêu như Chúa muốn. Mục vụ Đồng hành cần giúp nhìn sâu vào hoàn cảnh thực tế, cả trong những trường hợp rất chông chênh, hoặc đã đổ vỡ, và ý thức luật tiệm tiến là tiêu chuẩn căn bản của sự phân định và điều đó sẽ không thực hành được nếu không có sự đồng hành. «Vấn đề là một lộ trình đồng hành và phân định nhằm hướng dẫn các tín hữu này đi đến ý thức về tình trạng của họ trước mặt Thiên Chúa» (AL 300).

Sau cùng, Hội thánh giúp các cá nhân tín hữu và gia đình họ hội nhập cách hài hòa trọn vẹn vào Thân Mình Đức Kitô toàn thể, tức là Gia đình Hội thánh. Hội nhập hoàn toàn, vào mối hiệp thông hội thánh, là mục đích sau cùng của Đồng hành. Hội nhập dựa trên cơ sở của Bí tích Rửa Tội như ơn huệ khởi đầu chung và hiệp thông Thánh Thể như là mục đích sau cùng của toàn thể tiến trình Đồng hành.

Các bước đồng hành

Đồng hành như thế gồm ba bước sau đây:

  1. Đón tiếp

Bước đầu tiên luôn là đón tiếp người ta làm sao để họ cảm thấy mình bước vào trong lòng Hội thánh ấm áp và thân tình như trong một gia đình. Đây là bước đầu tiên của một tiến trình hội nhập, sống và tăng trưởng trong Hội thánh. Từ đó, tiến tới một bước đầu tiên là làm cho đôi bạn muốn tự xem xét lại sự thật tình trạng hiện tại của mình. Mục đích của sự đón tiếp này là nhằm thiết lập một quan hệ để cùng đi trên một lộ trình, không hẳn để giải quyết tức thời một vấn đề, hội nhập dần vào cộng đoàn cho tới lúc được hiệp thông trọn vẹn. Sau cuộc gặp gỡ đối thoại đầu tiên vị mục tử có thể nhận định được bước đầu hoàn cảnh của người ta. Người đồng hành không chỉ chú ý tới tình trạng ‘trái qui tắc’ nhưng đồng thời còn quan tâm xét đến những mỏng manh yếu đuối và thương tổn của con người, và cả những khó khăn cản trở thực thi tình yêu đích thật của Tin mừng.

  1. Đề nghị một hành trình đức tin qua các giai đoạn khác nhau. Điều quan trọng ở bước thứ hai này là làm sao con người đạt được một đức tin tới mức hoán cải. Phải loan báo cho họ, theo cách thức phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của họ, chân lí Phúc âm như là ánh sáng soi chiếu vào cuộc đời để đọc lại lịch sử của họ, và sẽ thấy không hề bị bế tắc, trái lại bắt đầu từ Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cho họ con đường cứu thoát. Như vậy lộ trình phải đi bao hàm hai mức độ.

Thứ nhất là, tham dự vào hành trình như của một dự tòng dành cho người trưởng thành để đưa họ hội nhập dần vào cộng đoàn Hội thánh và hiểu biết những điều căn bản chủ yếu của đời sống Kitô hữu.

Thứ đến, cách đặc biệt hơn, là giúp họ hiểu ý nghĩa của dây hôn phối bất khả phân li của hai người đã nên “một xương một thịt” (x. St 2,24): tiêu chuẩn căn bản để giúp phân định, tức là để giúp họ nhận ra sự thật hoàn cảnh cụ thể của họ, và con đường phải đi để vượt qua tội lỗi.

«Vấn đề là một lộ trình đồng hành và phân định nhằm hướng dẫn các tín hữu này đi đến ý thức về tình trạng của họ trước mặt Thiên Chúa. Trao đổi với linh mục, ở tòa trong, sẽ góp phần đào luyện một phán đoán đúng đắn về những gì gây cản trở cho khả năng tham dự đầy đủ hơn vào đời sống của Hội thánh, và về các bước có thể xúc tiến và phát triển khả năng đó. Đành rằng trong chính lề luật không có sự tiệm tiến (cf. Familiaris Consortio, 34), nhưng việc phân định này sẽ không bao giờ được phép bỏ qua những yêu sách của sự thật và bác ái theo Tin mừng như Hội thánh đề nghị» (AL 300).

  1. Hoán cải: hành trình trở về với ánh sáng hướng tới việc đón nhận các bí tích.Đứng trước sự thật của mình, người tín hữu thấy những cản trở nào vẫn còn đó trong cuộc sống trước đòi hỏi của việc bước theo Đức Kitô. Chấp nhận nguyên lí này là biết mình phải thay đổi đời sống. Đó là tiến trình hoán cải mà Hội thánh cần đồng hành đúng đắn. Giai đoạn thứ ba này phải bắt đầu khi một trong hai người xin bước vào hành trình đặc biệt hoán cải này, với viễn tượng được tham dự vào các bí tích, Hòa Giải và Thánh Thể, một khi đã thỏa các điều kiện cần thiết. Việc đón nhận này có tính cách cá nhân, cho dẫu đáng khuyến khích cả hai người cùng dấn thân vào hành trình hoán cải hầu cả hai cùng giúp nhau đi qua những thời kì khó khăn. Điều chủ chốt của toàn thể quá trình khai sáng này là vấn đề tha thứ. «Tha thứ cho điều bất công mình phải chịu thì không dễ chút nào, nhưng ân sủng sẽ giúp người ta có thể tha thứ với tiến trình thời gian» (AL 242).

Câu hỏi gợi ý suy tư và thảo luận

  1. Theo anh /chị điều gì quan trọng nhất trong các bước đồng hành với các gia đình di dân, các gia đình với cha/mẹ đơn thân, các gia đình với hôn nhân khác đạo, với những người li thân, li dị, tái hôn hoặc không tái hôn?
  2. Trong đồng hành với những tín hữu li thân, li dị tái hôn, yêu sách về sự thật (dây hôn phối bất khả phân li) và bác ái (trách nhiệm hiện tại với những người liên hệ) theo Tin mừng có thể dung hòa như thế nào?
  3. Đâu là những cản trở khó vượt qua nhất trong tiến trình hoán cải của người tín hữu đang sống trong tình trạng “trái qui tắc” để dần hướng họ tới hội nhập trọn vẹn vào Hội thánh qua thực hành các bí tích (Hòa giải, và Thánh Thể)?

 


 

BÀI 6: BƯỚC ĐI TRONG ÁNH SÁNG CHÂN LÝ: SỰ PHÂN ĐỊNH

Đối với các gia đình trong hoàn cảnh khó khăn, Hội thánh ý thức mình phải kiên nhẫn và trong yêu thương đồng hành, dưới ánh sáng Lời Chúa giúp họ phân định để nhận ra sự thật tình trạng hiện tại còn xa với sự thật của tình yêu như Thiên Chúa muốn. Hội thánh ý thức luật tiệm tiến là tiêu chuẩn căn bản của sự phân định và sẽ không thực hành được nếu không có sự đồng hành. Vậy, phân định là gì?

1. Phân định không phải là…

Phân định không phải là phán xét về tình trạng ân sủng của của một người. Vì, xét cho cùng, chỉ Thiên Chúa, mới có thể phán xét nội tâm của con người. Đức Thánh cha Phanxicô đã có lần nói: “Tôi là ai mà dám phán xét người ta?”  Hội thánh luôn giới hạn mình lại trong khả năng phán định hạnh kiểm bên ngoài hay tình trạng khách quan cuộc sống của một người mà thôi.[1] Khi Hội thánh không chấp nhận những người li dị tái hôn (về mặt dân sự) được rước lễ – trừ trường hợp họ không tỏ những dấu hiệu sám hối khách quan (sống tiết dục) – không có nghĩa là Hội thánh phán xét họ sống trong tình trạng tội nguy tử. Nhưng vì đó là một phán định dựa trên hoàn cảnh sống bên ngoài của họ vốn mâu thuẫn một cách khách quan với mầu nhiệm hiệp thông trong tình yêu trung thành giữa Chúa Kitô và Hội thánh Người trong Bí tích Thánh Thể.

Ở đây, có hai điểm chắc chắn mà chúng ta phải lưu ý trong khi làm mục vụ:

1) Ta không thể lượng định, nhận biết hay phán xét được sự tự do của một người dấn thân trong hoàn cảnh tội lỗi khách quan tới mức độ nào. Và 2) Vấn đề xét ở đây một người có được xưng tội, rước lễ hay không (như là việc công khai), không bởi tình trạng ân sủng cá nhân hoặc bởi nhận thức chủ quan của người ấy, nhưng là bởi điều kiện khách quan công khai bên ngoài.

2. Hoàn cảnh sống công khai của một người là điều quan trọng

Tại sao tính công khai của hoàn cảnh sống của một người lại quan trọng đến thế? Một điều kiệncần thiết để một người có thể được rước lễ là: trong lương tâm người ấy có thể nói: “tôi không thấy mình có tội trọng gì”. Thế nhưng điều kiện này không đủ. Tuyên bố về việc cho một người li dị tái hôn được phép Rước lễ của Hội đồng Tòa thánh về Giải thích các Bản văn Luật đã được Tông huấnAmoris laetitia trích dẫn lại (x. AL 302, chú thích 345) xác định rằng «Đón nhận Mình Thánh Chúa trong tình trạng bất xứng công khai là một việc gây tổn hại khách quan cho sự hiệp thông Giáo hội; đó là một hành vi xâm phạm các quyền lợi của Giáo hội và của tất cả các tín hữu đang sống phù hợp với những đòi hỏi của sự hiệp thông ấy»[2]. Tính chất công khai của sự kiện về tình trạng sống của một người tín hữu tạo nên một hoàn cảnh mới liên hệ không những đến lương tâm cá nhân người ấy, mà còn tới toàn thể cộng đoàn Hội thánh.

Hôn nhân cốt yếu là một thực tại công khai. Thật vậy, «sự ưng thuận làm nên hôn nhân không thuần túy là một quyết định riêng tư, bởi lẽ nó tạo nên nơi mỗi người và nơi cả cặp vợ chồng một hoàn cảnh mới thuộc Giáo hội và xã hội»[3]. Nếu như hôn nhân là một chuyện riêng tư, thì bấy giờ phán quyết riêng tư về sự hôn nhân bất thành của đương sự cũng đủ để người ấy có thể đi đến kết hôn với một người khác. Tuy nhiên, khi vợ chồng kết hợp với nhau trong hôn nhân, đó là họ đã làm một cái gì vượt quá chính bản thân họ. Họ đã bước vào thực tại xã hội và Giáo hội. Bởi thế, «phán quyết của lương tâm về tình trạng hôn nhân của mình không chỉ liên hệ đến một tương quan trực tiếp giữa con người với Thiên Chúa, bỏ qua trung gian của Giáo hội, mà còn liên hệ đến cả Giáo luật ràng buộc lương tâm» (Ibid.). Hôn nhân là thực tại thuộc Giáo hội, bỏ qua điều đó là chối bỏ tính bí tích của hôn nhân. Bởi thế, vấn đề hôn nhân không thành sự đòi buộc phải có một sự phân định «bằng con đường của tòa ngoài của Giáo hội» (Ibid., 9). 

Đức Thánh cha Phanxicô lưu ý «có mối liên kết sâu xa giữa đời sống hôn nhân và Thánh Thể» (AL318). Chính vì hôn nhân không chỉ là một sự kiện riêng tư giữa tôi, bạn đời của tôi và Chúa Giêsu, nên việc hiệp thông Thánh Thể cũng không chỉ là vấn đề riêng tư. Đức Thánh cha nhấn mạnh «ta cần biết phân định Thân Mình của Chúa, nhận ra Thân Mình ấy bằng đức tin và đức ái trong các dấu chỉ bí tích cũng như trong cộng đoàn» (AL 186). Đó là nhận biết Thân Mình ấy hiện diện trong dấu chỉ bí tích, đồng thời hiện diện trong Thân Mình Người là Giáo hội. «Thánh Thể đòi hỏi chúng ta phải hội nhập vào thân thể Hội thánh duy nhất» (AL 186). Giáo hội là bí tích phổ quát của ơn cứu độ (Lumen gentium 48), là «dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp thân mật với Chúa và sự hợp nhất toàn thể nhân loại» (LG 1). Chúng ta được cứu độ trong chừng mực chúng ta là thành phần của thân thể Người, là Hội thánh. Do đó, như đức Thánh cha nhấn mạnh, sự phân định phải mang chiều kích Giáo hội. Như lời Đức Giáo hoàng Benêđictô XVI nói, «Đừng quên rằng “cái thần bí” của Bí tích có đặc tính xã hội» (Deus Caritas est 14; AL 186). Thế nên, sự hiệp thông Thánh Thể thể hiện qua hành động rước lễ của người tín hữu biểu lộ sự hiệp nhất

Câu hỏi gợi ý suy tư và thảo luận

  1. Theo anh /chị một người li dị tái hôn xác tín trong lương tâm cuộc hôn nhân trước đó của họ không thành sự, cần điều kiện gì để có thể công khai lãnh nhận các bí tích?
  2. Bí tích Hôn phối và Bí tích Thánh Thể có liên hệ chặt chẽ với nhau như thế nào? Tính chất “riêng tư” và “công khai” có khác gì với “tính thần bí” và “tính xã hội” trong các Bí tích của Hội thánh Chúa Kitô? Từ đó để chúng ta hiểu tại sao một người li dị tái hôn không thể xưng tội và rước lễ.
  3. Trong đồng hành với những tín hữu li thân, li dị tái hôn, Hội thánh cần giúp họ như thế nào để nhận thức yêu sách về sự thật (dây hôn phối bất khả phân li) và bác ái (trách nhiệm hiện tại với những người liên hệ) theo Tin mừng?
  4. Đâu là những cản trở khó vượt qua nhất trong tiến trình hoán cải của người tín hữu đang sống trong tình trạng “trái qui tắc” để dần hướng họ tới hội nhập trọn vẹn vào Hội thánh qua thực hành các bí tích (Hòa giải, và Thánh Thể)?

………………………………..

[1] Cf. Cđ Trentô, Sắc lệnh về sự Công chính hóa, khóa VI, ch. 9, H. Denzinger 1534. X. Tôma Aquinô,Super Evangelium S. Matthaei lectura, ch. 7, đ. 1.

[2] Hội đồng Tòa thánh về Giải thích các Bản văn Luật, Tuyên bố về việc cho một người li dị tái hôn được phép Rước lễ, 24.06.2000, 2.

[3] Bộ Giáo lý Đức tin, Thư gửi các Giám mục Giáo hội Công giáo về việc Hiệp thông Thánh Thể đối với những người li dị tái hôn, 14.09.1994, 8.


BÀI 7: CÁCH THỨC PHÂN ĐỊNH

Đức Thánh Cha Phanxicô nói «các Mục tử không thể cảm thấy hài lòng chỉ bằng cách áp dụng các luật luân lý cho những người sống trong những hoàn cảnh “bất qui tắc” » (AL 305).  Do hoàn cảnh hoặc có thể bởi các yêu tố giảm khinh, những người sống trong một “hoàn cảnh tội lỗi” về khách quan – mà không phải là lỗi phạm chủ quan hoặc hoàn toàn không phải là lỗi phạm – rất có thể đang sống trong ân sủng của Chúa, họ có thể yêu thương, và cũng có thể tăng trưởng trong đời sống ân sủng và bác ái, trong khi được Hội thánh giúp đỡ. Các Mục tử cần đồng hành và giúp họ phân định để tìm ra những cách khả dĩ để đáp lại tiếng Chúa và để lớn lên qua các giới hạn. Cuộc sống mà lúc nào cũng đòi rạch ròi, chỉ là hoặc trắng hoặc đen, thì có khi sẽ đóng kín con đường của ân sủng và của triển nở, làm nản lòng người ta trên con đường nên thánh (x. Al 305).

Nhưng để tránh có những giải thích lệch lạc Đức Giáo hoàng lưu ý «dù sao Hội thánh cũng không được từ bỏ đề nghị lí tưởng trọn vẹn của hôn nhân, kế hoạch của Thiên Chúa với tất cả tầm vóc cao cả của nó» (AL 307).

Mục tiêu của sự phân định

Đức Giáo hoàng Phanxicô, dựa theo Thượng Hội đồng, đề nghị ít nhất là 7 đặc tính cơ bản của một sự phân định đúng đắn như sau đây:

  1. Đồng hành và phân định là một lộ trình «nhằm hướng dẫn các tín hữu này ý thức về tình trạng của họ trước mặt Chúa».
  2. «Cần đào luyện một phán đoán đúng đắn về những gì gây cản trở khiến người tín hữu ấy không thể tham dự đầy đủ hơn vào đời sống của Hội thánh».
  3. Xem xét các bước thuận lợi có thể xúc tiến và phát triển khả năng tham dự đó.
  4. «Không bao giờ được phép bỏ qua những yêu sách của sự thật và bác ái theo Tin mừng như Hội thánh đề nghị».
  5. Yêu cầu phải biết «khiêm tốn, cẩn trọng, yêu mến Hội thánh và giáo huấn của Hội thánh».
  6. Chân thành tìm kiếm thánh ý Chúa và khao khát đáp lại thánh ý Ngài cách hoàn hảo hơn.
  7. Hàm ý không bao giờ đặt những ước muốn riêng của mình trên lợi ích chung của Hội thánh

Cách thức phân định: cùng cảm nghĩ với Hội thánh

Thánh I-nhã Loyola có đưa ra những chỉ dẫn giúp phân định trong sách Linh Thao của ngài:

«Tất cả những điều chúng ta phải quyết định lựa chọn nhất thiết phải là những điều, tự chúng không tốt không xấu, hoặc tốt và phù hợp với ý của Mẹ Thánh là Hội thánh phẩm trật, chứ không phải là những điều xấu hay những điều đi ngược với Hội thánh»[1].

Hơn nữa, «Có những điều mà khi việc lựa chọn đã dứt khoát, thì không thể thay đổi, chẳng hạn như đã chịu chức linh mục hay đã kết hôn» (171). Trong trường hợp đó, «một khi đã làm việc lựa chọn không thể đổi thì không được chọn lại nữa vì không thể cởi bỏ được» (172).

Như vậy, nếu bạn đã kết hôn, bạn không cần phải phân định để biết liệu bạn có nên kết hôn lần nữa hay không. Hôn nhân của bạn không phải là vấn đề để đem ra bàn luận tìm thánh ý Chúa nữa. Tốt hơn, hãy xem xét cuộc kết hợp mới hiện tại ngoài hôn nhân của bạn. Cuộc kết hợp “trái qui tắc” đó mới là vết thương và nỗi đau của bạn. Ở đây chúng ta cần tìm biết cách thức để quay về với sự thật của «tình trạng của đương sự trước mặt Chúa» (AL 300). Như vậy mục đích là trở về một lối sống phù hợp với sự thật của dây liên kết hôn phối của bạn. Sự thật của dây hôn phối ấy, không còn là đối tượng của chọn lựa nữa, mà là bối cảnh để thực hiện phân định sao cho thật ý nghĩa.

Để phân định tốt, người ta cần có suy nghĩ và cảm thức cùng chung với Hội thánh (sentire cum ecclesia). Muốn vậy, chúng ta phải khiêm tốn, ngoan ngoãn và chân thành. Thánh I-nhã cũng trong sách Linh thao nói, trong những qui tắc «phải theo để được cảm nghĩ chân chính trong Hội thánh chiến đấu», rằng phải «gạt bỏ mọi phán đoán riêng, ta phải giữ tâm hồn qui hướng và sẵn sàng vâng phục Hiền thê thật của Đức Kitô, Chúa chúng ta, là Hội thánh phẩm trật, Mẹ Thánh chúng ta» (353). Đối với Thánh I-nhã, cảm thức và suy nghĩ cùng với Hội thánh có nghĩa là «ca ngợi mọi giới luật của Hội thánh, sẵn sàng tìm lí lẽ để bênh vực và không bao giờ công kích» (361). Bởi thế, phân định không có nghĩa là biện chính cho những ước muốn có thể thông cảm nhưng vô lí, đúng hơn, phân định là tìm những lí lẽ đáp ứng những đòi hỏi của sự thật và bác ái.

Câu hỏi gợi ý suy tư và thảo luận

  1. Anh chị, nếu là người đang sống một kết hợp “trái qui tắc”, tức là đã li dị và tái hôn, hiện nay có cảm thấy khao khát muốn sống đức tin qua việc hiệp thông như thế nào đó với Hội thánh của Chúa không? Đó là những ước muốn cụ thể nào? Những điều đó có được thỏa nguyện không, tới mức nào?
  2. Anh chị đã gặp gỡ một linh mục, hoặc một Kitô hữu (tu sĩ, giáo dân) đáng tin cậy nào đó khả dĩ đồng hành giúp anh chị phân định tìm thánh ý Chúa cho cuộc sống hiện tại chưa?
  3. Các nhóm nhỏ (hội đoàn, Cộng đoàn Kitô nhỏ, bạn hữu, láng giềng Kitô hữu) của giáo xứ, giáo phận chúng ta đã có ý thức và thực hiện mục vụ truyền giáo nơi các gia đình “trái qui tắc” này như thế nào?
  4. Là linh mục, và là mục tử của Dân Chúa ở địa phương cũng như trong tinh thần hiệp thông Hội thánh, các cha đã có cùng cảm thức và băn khoăn với Hội thánh, với Đức Giáo hoàng và Thượng Hội đồng Giám mục, về “Đồng hành là mục vụ chính yếu nhất của Hội thánh”?

—————————-

[1] I-nhã Loyola, Linh Thao, s.170.