Chúa nhật II thường niên, năm C: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa


CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN, NĂM C
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Is 62,1-5; 1Cr 12,4-11; Ga 2,1-11

MỤC LỤC

  1. Phép lạ
  2. Tiệc cưới Cana – ViKiNi
  3. Để cho tình mặn nồng – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
  4. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa
  5. Dấu lạ đầu tiên – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
  6. Rượu ân sủng
  7. Ngài là ai? – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
  8. Hôn ước giữa Thiên Chúa với loài người
  9. Niềm vui trong thời Đấng Thiên Sai
  10. Tiệc cưới Cana – Lm. Damien OFM
  11. Ân sủng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  12. Hôn nhân không có hôn thú – Lm. Nguyễn Hữu Thy
  13. Chúa Nhật 2 Thường Niên
  14. Họ hết rượu rồi – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
  15. Cuộc sống luôn cần sự quan tâm
  16. Có Mẹ đồng hành – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
  17. Rượu hết – Rượu đầy
  18. Tiệc cưới Cana
  19. Ý nghĩa phép lạ Cana – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
  20. Mẹ Maria
  21. Thiên Chúa cảm thông và yêu mến
  22. Tiệc cưới
  23. Biến đổi kỳ diệu
  24. Tiệc cưới Cana – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  25. Gia đình có Mẹ – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
  26. Có Chúa gia đình mới hạnh phúc
  27. Họ hết rượu rồi
  28. Vị khách quyền năng – B.M.Thiện Mỹ CRM
  29. Mời Chúa đến nhà – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
  30. Suy niệm của Achille Degeest
  31. Ðức Giêsu, Ðấng đem lại niềm vui cho dân người
  32. Giao ước mới của sự phong phú phong nhiêu
  33. Hãy mời Chúa vào nhà
  34. Giêsu, niềm vui mới
  35. Cana – McCarthy
  36. “Ngài có bảo gì, hãy làm theo!”
  37. Ký thác
  38. Nước hằng sống – Lm. Vũ Đình Tường
  39. Ngày thứ Ba – Lm. Vũ Đình Tường
  40. Có Mẹ ở kề bên – Huệ Minh
  41. Dấu chỉ tiệc cưới Cana – Radio Veritas Asia
  42. Chúa đến mang lại niềm vui và hạnh phúc
  43. Bình an, êm xuôi là ơn Chúa
  44. Chúa Nhật 2 Thường Niên
  45. Cơ hội làm việc thiện
  46. Năm đức tin, sống điều Chúa dạy
  47. Khi lửa tắt, bình khô rượu – AM Trần Bình An
  48. Biến đổi
  49. Kính mời Đức Giêsu đến dự tiệc cưới
  50. Vị khách
  51. Hạnh phúc mong manh – Thiên Phúc
  52. Chúa Giêsu thay đổi tất cả
  53. Hôn Phu Giáo Hội
  54. Chuyện bất ngờ
  55. Hiện diện
  56. Tiệc cưới Cana
  57. Thiên Chúa sẽ lấp đầy
  58. Tiệc cưới
  59. Tình yêu với chai rượu Cana
  60. Có Mẹ chở che – Lm. Nguyễn Nguyên
  61. Niềm vui
  62. Có Chúa, niềm vui sẽ trọn vẹn
  63. Cảm thông – Trầm Thiên Thu
  64. Quan tâm đến tha nhân – JKN
  65. “Giờ con chưa đến” (Ga 2,4)
  66. Tiệc cưới Cana – Lm. PX. Vũ Phan Long
  67. Rượu ngon sẽ không thiếu – Dã Quỳ
  68. Chú giải của Noel Quesson
  69. Niềm vui lớn – William Barclay

1. Phép lạ

Đoạn Tin Mừng vừa nghe không nói rõ là tiệc cưới của ai, nhưng chắc chắn là của một người trong họ hàng thân thiết với Chúa, vì người ta thấy có sự hiện diện của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ.

Theo tục lệ của người Do Thái, thì đám cưới thường kéo dài tới 7 ngày. Dĩ nhiên khách được mời không bắt buộc phải ở lại dự tiệc suốt 7 ngày. nhưng số người ở lại cho tới hồi kết thúc có lẽ không ít, nên xảy ra nạn thiếu rượu. Thiếu rượu nửa chừng trong một tiệc cưới quả là một tai hoạ. Danh dự của đôi tân hôn có thể bị thương tổn. Như thế, chúng ta có thể tưởng tượng ra nỗi lo âu và cảnh chạy đôn chạy đáo của nhà đám. Đức Maria, mẹ của Chúa Giêsu, với sự nhạy cảm và tinh tế của một người phụ nữ, hẳn đã nhận ra được những sự lục đục diễn ra ở hậu trường của tiệc cưới và hiểu được nỗi khốn quẫn của nhà đám. Dù sao thì Mẹ Maria đã là người đầu tiên lên tiếng về tình trạng này: họ không còn rượu nữa.

Một nhận định vô tư về tình hình hay còn hàm chứa một lời cầu xin? Có thể đây chỉ là một lời tỏ bày, báo động với Chúa Giêsu về nỗi quẫn bách của nhà đám, không nhất thiết Mẹ Maria phải xin một phép lạ. Điều quan trọng hơn ở đây là Mẹ Maria đã đặt Chúa Giêsu trước tình trạng quẫn bách của con người. Nhưng người đọc không thể không sửng sốt trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Này bà, đối với tôi và bà, nào có việc gì. Một câu trả lời xem ra có vẻ cứng cỏi và xa vắng. Các nhà chú giải cắt nghĩa rằng trong một số trường hợp, câu nói này khá thông thường trong các giới Do Thái, và trong ngôn ngữ Hy Lạp, thì có nghĩa là: việc gì đến bà. Câu trả lời cua Chúa Giêsu ngụ ý cho thấy hai người, Người và mẹ Người không ở trên cùng một bình diện. Hành động của Người sẽ vượt lên trên rất xa điều Mẹ Maria có thể nghĩ đến. Tiếng bà dùng ở đây để chỉ Mẹ Maria không hề có nghĩa bất kính, mà chỉ là một kiểu xưng hô theo tập tục của của người Hy Lạp.

Như thế giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria có một sự khác biệt trong tầm nhìn. Đối với Chúa Giêsu phép lạ này bày tỏ vinh quang của Người được thực hiện là theo ý định của Cha Người. Sau cùng phép lạ đã xảy ra, cơn khốn quẫn của nhà đám được giải quyết một cách dư dật quá lòng mong muốn, sáu chum nước lã, mỗi chum chứa hai hoặc ba thùng, biến thành một loại rượu ngon. Nước lã biến thành rượu ngon. Thế nhưng nếu lưu ý chúng ta sẽ thấy, phép lạ đã không diễn ra chỉ bằng một lời phán, nhưng đã khởi sự từ việc nhận ra sự khốn quẫn của người khác, từ công lao khó nhọc của các gia nhân gánh đầy mấy chum nước.

Từ đó chúng ta đi tới kết luận, dù là trong phép lạ, thì sự tham gia cộng tác của con người cũng vẫn là điều cần thiết. [Mục Lục]

2. Tiệc cưới Cana – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhật trong lịch sử nhân loại, đó là đám cưới Alexandre Đại Đế với Công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.

Khi quyết định lấy một người châu Á, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim, nhưng ông còn muốn biểu lộ ý chí thống nhất các dân tộc từ đông sang tây. Ông đã hy vọng được một người con nối dõi hai dòng máu đông tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu. Đám cưới được cử hành trong bảy ngày bảy đêm, nơi nơi đều có yến tiệc. Để tăng thêm long trọng, Alexandre cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: Thế Vận Hội được khai sinh từ đó (Lẽ Sống, 1991 tr. 133)

Nhân loại từ xưa đến nay, không có tiệc mừng nào vui mừng lớn lao ăn sâu vào lòng các dân tộc bằng tiệc cưới. Tại sao vậy?

Thưa, vì tiệc cưới chúc mừng một công trình tốt đẹp nhất của loài người, một công trình của tình yêu. Tình yêu là nền tảng tác tạo sinh tồn của loài người. Nhờ tình yêu Thiên Chúa, con người đã được tạo dựng và được ban cho một quà tặng làm gia nghiệp khổng lồ là cả một vũ trụ mênh mông, chất đầy muôn loài muôn vật rực rỡ muôn màu, lừng hương thơm ngát. Cũng nhờ tình yêu đậm đà trong mình, con người biểu lộ ý chí thống nhất nên một và dâng hiến cho nhau một niềm hạnh phúc dồi dào hơn bất cứ hạnh phúc nào trên trần gian này. Hạnh phúc kết hợp đó càng được bền vững dài lâu nhờ sinh thành con cái bởi chính thịt máu mình, một quà tặng tuyệt vời hơn bất cứ tặng phẩm nào khác. Đó là công trình tốt đẹp nhất mà Thiên Chúa đã thiết lập, đến nỗi nhiều lần Đức Giêsu đã ví nước trời giống như tiệc cưới Hoàng Tử.

Chính vì thế, toàn bộ gia đình thân mẫu Đức Giêsu, Đức Giêsu và các môn đệ đã đến dự tiệc cưới Cana. Cũng chính vì thế, khi thấy thiếu rượu, Đức Mẹ đã vội vã xin con mình cứu giúp, không cần phải để tới lúc quản tiệc và chàng rể kêu van.

Sáu trăm lít nước lã đầy sáu chum đá đã được biến thành rượu ngon tuyệt hảo là một quà tặng đầu tay của Chúa Con ban tặng cho đôi tân hôn, mở màn khai mạc công trình cứu thế. Cũng thế, vũ trụ phong phú được sáng tạo là quà tặng đầu tay của Chúa Cha ban cho đôi tân hôn đầu tiên của nhân loại, đã mở màn cho một cuộc sống hạnh phúc trong cảnh địa đàng. Tại sao món quà sáng tạo và cứu thế được Thiên Chúa ban tặng trước nhất cho đôi tân hôn?

Thưa tân hôn như gốc rễ của cây nhân loại. Cành lá tươi tốt xum xuê, hoa trái thơm tho, ngọt ngào là nhờ gốc rễ hút chất bổ dưỡng dồi dào. Cành lá, hoa trái đèo đẹt, héo tàn là tại gốc rễ hút những chất chua phèn, cằn cỗi. Hôn nhân hấp thụ những nguồn trần tục, dòng dõi bị ô nhiễm bệnh hoạn. Hôn nhân hấp thụ nguồn suối hoan lạc chân thiện mỹ tràn ra từ Thiên Chúa, dòng dõi tốt đẹp, hạnh phúc.

Ban đầu, Thiên Chúa đã đặt hôn nhân là yếu tố cơ bản cho việc tiếp tục phát triển và bảo tồn công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Tiếc thay cho đôi vợ chồng đầu tiên đã làm hỏng quà tặng quý báu của Thiên Chúa. Các đôi kế tiếp không còn rượu ngon nữa. Cuộc sống loài người như tiệc cưới hết rượu. Mọi món đều nhạt nhẽo, ôi ỉu. Nguồn vui đã mất. Thiên Chúa đã xa vắng.

Nay tân hôn Cana, Con Thiên Chúa đã đến. Nguồn vui sống lại cho loài người. Mọi món đều đậm đà hương vị.

Không phải hương vị rượu ngon, mà là hương vị tình yêu muôn thuở của Thiên Chúa, như tiên tri Isaia đã diễn tả: “Chẳng ai còn réo tên ngươi: “Đồ chồng bỏ. Xứ sở ngươi hết bị tiếng là “phận hẩm duyên ôi”. Nhưng ngươi được mệnh danh: “Ái khanh lòng ta hỡi”, và xứ sở ngươi: “cô gái có chồng, vì ngươi sẽ được Chúa đem lòng sủng ái, và Người kết hôn cùng xứ sở ngươi”. Như chàng thanh niên lấy nàng trinh nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về” (Bài I). Đấng tác tạo đây chính là Con Thiên Chúa mà nhờ Người muôn vật được tạo thành (Ga. 1,3). Ngươi đây chính là Hội Thánh mà thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh ; như vậy Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy… thánh thiện, tinh tuyền” (Eph. 5, 25-27). Đức Kitô hiện diện trong tiệc cưới Cana chính là để mở màn cho một cuộc hôn nhân muôn thuở giữa Đức Giêsu và Hội Thánh. Người không chỉ tặng cho Hội Thánh thứ nước lã, mà là thứ nước chảy từ Trái Tim Người để thanh tẩy, thánh hóa Hội Thánh, không phải thứ rượu nho thơm ngon, mà chính Máu châu báu Con Thiên Chúa làm cho Hội Thánh nên thánh thiện tinh tuyền, không phải thứ tình yêu dâng hiến hạnh phúc loài người, mà là tình yêu dâng hiến hạnh phúc muôn thuở của Thiên Chúa làm cho Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy.

Hội Thánh muốn được trở nên cô dâu lộng lẫy, thì Hội Thánh phải mời Đức Mẹ đến dự cuộc sống của mình. Mẹ sẽ cầu cứu cho Hội Thánh được thứ rượu ngon mãi mãi.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã cầu xin Chúa ban quà tặng chan chứa niềm vui cho tiệc cưới Cana. Xin Mẹ đoái thương cầu bầu cùng Chúa cho mọi đôi hôn nhân biết đón nhận những quà tặng sáng tạo và cứu độ của Chúa để làm cho đời sống gia đình họ được ấm no hạnh phúc trong tình yêu nồng nàn và hấp thụ nguồn suối hoan lạc chân thiện mỹ chảy ra từ Thánh Tâm Chúa. [Mục Lục]

3. Để cho tình mặn nồng – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Trăm năm hạnh phúc là lời chúc không thể thiếu trong các tiệc cưới. Tình duyên mãi sắt son và mặn nồng là điều ai cũng ước mong khi bước vào đời sống hôn nhân – gia đình. Nói về chữ tình thì có lẽ tình hôn nhân đứng hàng đầu so với các thứ tình nhân loại khác như tình mẫu tử, phụ tử, bằng hữu… Đức Bênêđictô XVI đã nhận định: “Tình yêu này, tình yêu giữa người nam và người nữ, trong đó hồn xác kết hợp bất khả phân ly và mở ra cho con người một lời hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được, có vẻ là kiểu mẫu của tình yêu; bên cạnh tình yêu này, thoạt nhìn mọi hình thức khác của tình yêu hầu như mờ nhạt đi” (TĐ Thiên Chúa Là Tình Yêu số 2).

Tình yêu hôn nhân được đề cao không nguyên chỉ vì người ta thoáng nhận ra nét đẹp là sự hết lòng và tính vô cầu nơi tình yêu này mà còn thấy được tầm quan trọng của nó là làm nên gia đình vốn là tế bào của xã hội. Quả thật lịch sử minh chứng rằng ở đâu mà tình yêu hôn nhân bị hạ giá thì ở đó đời sống xã hội dễ bị xuống cấp, bất ổn và nền đạo đức dễ bị băng hoại. Thánh Tông đồ dân ngoại đã dùng tình yêu đôi lứa làm dấu chỉ cho tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh. Nhiều Ngôn sứ như Hôsê, Isaia cũng dùng hình ảnh tình yêu hôn nhân để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người. “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo người sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Chúa ngươi thờ” (Is 62,5).

Con Thiên Chúa đã làm người, chào đời trong một mái gia đình. Khởi đầu công cuộc rao giảng tin mừng và trong lần đầu tiên thể hiện quyền năng, Chúa Giêsu đã cứu giúp một đôi tân hôn khỏi bẽ mặt trước quan khách trong một tiệc cưới. Qua bài tường thuật của tin mừng thánh Luca về phép lạ hóa nước thành rượu ngon của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana chúng ta có thể rút ra đôi điều nhận định về đời sống hôn nhân gia đình:

– Luôn có đó nhiều sự kiện hay biến cố dù không mong vẫn cứ đến, dù chẳng muốn vẫn cứ xảy ra. Đã tổ chức tiệc cưới thì việc chuẩn bị rượu cách đủ đầy và có dư là điều như tất yếu. Với người Do Thái thời bấy giờ thì đây là chuyện hẳn nhiên, vì theo phong tục tập quán thì tiệc cưới có thể kéo dài từ ba đến bảy ngày. Tiệc cưới tại Cana có thể nói là đám tiệc không nhỏ. Chúng ta có thể luận suy điều này vì có người quản tiệc và số lượng chum nước dùng cho việc thanh tẩy (sáu chum nước, mỗi chum khoảng tử 80 dến 120 lit nước). Tiệc lớn, ắt gia đình phải khá giả. Nhà khá giả thì chuyện chuẩn bị rượu cho khách không phải là chuyện quá sức và dĩ nhiên ít khi bị xao lãng. Thế mà tiệc chưa tàn thì rượu đã hết!

Từng hỏi nhiều đôi hôn nhân chung sống từ muời, hai muơi năm trở lên rằng các bạn đã bất hòa với nhau bao nhiêu lần, thì được câu trả lời là đếm không hết. Lại hỏi tần suất những lần mà những chuyện không như ý lớn nhỏ xảy ra là bao nhiêu, thì được trả lời là khoảng trên dưới một tuần một lần. Quả thật khi đã chung sống, chung mâm, chung nhà, chung… thì khó tránh được sự “chung đụng” do nhiều nguyên nhân khách quan hay chủ quan từ phía này hoặc phía kia. Nhìn nhận hiện thực cuộc sống để rồi chủ động tìm cách giải quyết, khắc phục, nghĩa là để duy trì và phát triển sự mặn nồng của tình yêu.

– Ngoài nỗ lực của bản thân người trong cuộc là đôi bạn thì rất cần đến sự giúp đỡ của người thân và cả những người hữu quan miễn là họ vốn có tầm lòng và sự bén nhạy với các tình huống. Tấm lòng và sự nhạy bén của Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana thì chúng ta đã rõ. Không kể Chúa Giêsu, có lẽ khách dự tiệc hôm ấy đang ở cao trào của tiệc vui vì tình trạng “ngà ngà say”, nên dường như chẳng có ai phát hiện sự cố thiếu rượu. Với tấm lòng nhạy bén, Mẹ Maria đã nhận ra sự cố này để rồi đến xin Chúa Giêsu ra tay can thiệp, cứu giúp.

Chuyện mình thì quáng, chuyện người thì sáng“. Sự thường người ngoài cuộc thì dễ có sự bình tâm để nhìn nhận vấn đề hơn. Tuy nhiên người ở ngoài này phải có cái tâm, cái tình và cái nhìn cách nào đó như tình người trong cuộc, nghĩa là xem như chuyện của mình. Để cho tình yêu hôn nhân vững vàng trước những sóng gió bễ đời, thì sự góp phần của mẹ cha, ông bà, thân bằng quyến thuộc là điều đáng trân trọng và đáng cầu mong. Xin đừng quên vai trò thiết yếu và hữu hiệu của người Mẹ đã nhận nhân loại chúng ta làm con khi Người đứng dưới chân thập giá năm nào (x.Ga 19,26-27). Đến với Mẹ thì chắc chắn chúng ta sẽ được Mẹ dẫn đến với Giêsu, Con của Mẹ là Đấng mà không có sự gì là không thể làm được.

– Đã yêu thì không chờ cơ hội cũng chẳng đợi đến thời đến buổi. Dù chưa đến giờ bày tỏ vinh quang, nhưng vì yêu thương Chúa Giêsu đã ra tay giáng phúc cho đôi tân hôn hôm ấy. Dù đã cùng với các môn đệ lánh riêng một nơi để nghỉ ngơi thế mà trước đoàn lũ dân chúng đông đảo như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu đã tiếp tục giảng dạy họ nhiều điều (x. Mc 6,30-34). Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải làm ngay hôm nay những gì ở trong tầm tay. Thiên Chúa là Tình Yêu và với Người thì mọi sự đều là hiện tại. Đã yêu hay sẽ yêu thì chưa hẳn là yêu. Động từ yêu cần phải luôn ở trong thì hiện tại.

– Sự kiện Chúa Giêsu làm cho sáu chum nước tức là khoảng sáu đến bảy trăm lít nước lã hóa thành rượu ngon hảo hạng khiến chúng ta nhận ra một quy luật của tình yêu đó là phải nhiều và mặn nồng hơn mãi. Có lẽ nhiều đôi bạn như chưa nhận thức đủ quy luật này. Tương tự như sự học, chuyện tình yêu như con thuyền đi dòng nước ngược. Không tiến thì ắt lùi.

– Để mặn nồng trong tình yêu thì lời căn dặn của Mẹ Maria quả là rất đáng lắng nghe và tuân giữ: “Người bảo gì thì hãy làm theo”. Thực thi lời Chúa dạy là điều tất yếu, nếu muốn vẹn chữ tình. Xin chớ dong dài luận lý trước mệnh lệnh Chúa truyền nếu chúng ta đã tin nhận Người là Đấng toàn tri và nhân hậu vô cùng. Vẫn có đó nhiều lứa đôi than vãn rằng con cầu xin mãi mà Chúa chưa ban cho gia đình ấm êm, thuận hòa. Trong nhiều lý do thì thường có lý do này là họ vẫn mãi cố chấp biện minh cho mình mà không thực thi điều Chúa phán trong lương tâm hay qua sự hướng dẫn của các mục tử hay qua sự khuyên bảo của những người khôn ngoan và đầy thiện ý.

– “Hãy đổ nước đầy các chum!” Đây là nước dùng cho việc thanh tẩy theo tục lệ của người Do Thái thời bấy giờ. Tập tục lúc bấy giờ, khi dùng bữa người Do Thái không ngồi trên ghế mà nằm nghiêng giữa sàn nhà. Vì thế việc rửa chân tay không chỉ mang tính lễ nghi thanh tẩy theo truyền thống mà còn để giữ vệ sinh cho sàn nhà, nơi các thực khách nằm mà dùng bữa. Để giữ sự mặn nồng tình yêu thì Chúa Giêsu lại ra lệnh làm một việc của sự thanh tẩy. Điều này nhắc nhớ chúng ta sự thật này: những bất hòa, bất ổn trong tình yêu hôn nhân gia đình thường có nguyên nhân là lỗi hay tội của ai đó hay của cả đôi bên. Thanh tẩy tâm hồn là điều cần thực hiện liên lĩ. Thanh tẩy không nguyên chỉ để cho tâm hồn mình trong sáng, tinh sạch mà còn vì hạnh phúc của người mình yêu thương.

Tu thân -Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ. Cái nhìn của người xưa vẫn chưa hề lỗi vậy. [Mục Lục]

4. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm Jb Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R)

Thời nay, đài truyền hình làm chương trình “chìa khóa thành công” hướng người trẻ khám phá và phát triển những khả năng của bản thân, hầu thành công trên đường đời.

Sáng kiến của đài truyền hình thật đáng trân trọng. Tuy nhiên, đối với người tín hữu, mọi hoạt động của cuộc sống con người phải bắt đầu từ việc sống lời Chúa.

Trình thuật Tin Mừng tiệc cưới Ca-na (Ga 2, 1-11) sẽ soi sáng điều này.

I. TIỆC CƯỚI

Rất tự nhiên, để sống đời hôn nhân, đôi nam nữ chính thức tuyên bố cho mọi người biết về sự chung sống của họ nơi bữa ăn mà người đời thường quen gọi là tiệc cưới.

Ngày hôn lễ, đôi tân hôn hạnh phúc tràn ngập; khách dự tiệc, họ hàng thân hữu hân hoan chúc tụng… và mong ước cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc, vẹn nghĩa thủy chung… Tại tiệc cứơi Ca-na, Đức Ma-ri-a, Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự để chia sẻ niềm vui với nhà cưới.

Ngày cưới, khởi đầu cuộc sống hôn nhân, mọi người và nhất là đôi tân hôn mong ước mọi sự diễn ra tốt đẹp, bởi đầu có xuôi thì đuôi mới lọt.

Vậy mà, tại tiệc cưới Ca-na, đang khi mọi người vui say hào hứng, thì nào có ai biết, nhà cưới lại đứng trước nguy cơ tắc trách. Hết rượu!

Ai đã phát hiện ra điều này? Mẹ Ma-ri- a.

Với tất cả tấm lòng nhậy cảm của một người mẹ lo toan chăm sóc trong gia đình, Mẹ đã sớm phát hiện ra nguy cơ lúng túng của nhà cưới và nói với Đức Giê-su con của Mẹ: “họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3).

Bây giờ, xử lý giải pháp này ra sao? Mẹ dặn: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 5).

II. CHÚA GIÊSU LÀ LỜI THIÊN CHÚA

Bằng lời quyền năng: “đổ nước vào các chum” (Ga 2, 7) Đức Giê-su đã cứu nguy cho nhà cưới một bàn thua trông thấy. Dấu lạ đã xảy ra, nước lã đã hóa rượu ngon, nhà cưới đã thoát hiểm, niềm vui tiếp tục dâng cao.

Từ dấu lạ đầu tiên tại Ca-na, các môn đệ đã nhận ra vinh quang của Thiên Chúa và “tin vào Người” (Ga 2, 11) và sau này xác tín mạnh mẽ: chỉ nơi Chúa Giê-su ” mới có những lời mang lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68).

Thì ra, sau khi tội nguyên tổ ập xuống trên con cháu, cuộc sống của con người không hoàn toàn tuyệt mỹ. Dầu người ta có mong ước mọi chuyện tốt đẹp nhưng sự tắc trách vẫn luôn rình rập và tai họa có thể ấp đến bất cứ lúc nào.

Đến nay, trong Chúa Giê-su, không chỉ mọi khó khăn trong sinh hoạt thường ngày của đời người sẽ được giải gỡ, mà sâu xa hơn, nơi Người, Thiên Chúa thông đạt thiện ý nhiệm mầu (Dt 1, 1) “Thiên ý này là kế hoạch yêu thương. Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô” (Ep 1, 9).

Lắng nghe lời Chúa Giê-su, người ta biết được Thiên Chúa là Cha, biết Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, biết được sự sống đời đời “sự sống đời đời là được nhận biết Cha Thiên Chúa duy nhất chân thật và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (Ga 17, 3).

Qua nhiều cách, Chúa vẫn đang ban lời của Người cho nhân loại để giải thoát con người mọi bế tắc, giúp họ tìm lại nguồn hạnh phúc, hướng dẫn họ tìm được giải pháp để thành công. Nhờ vậy, họ không còn phải đi trong bóng tối mà bước đi trong ánh sáng. Lời Chúa tiếp tục vang lên nơi Hội Thánh.

III. LỜI CHÚA NƠI HỘI THÁNH

Trước khi về trời Chúa Giê-su đã ban cho Hội Thánh nhiệm vụ công bố lời Người. (Mt 28, 18-20).

Hội Thánh không thể quên dấu lạ nước lã hóa rượu ngon ở tiệc cưới Ca-na được gợi lên từ sự quan tâm của Mẹ Ma-ri-a, từ tình yêu tuyệt đối của Đức Giê-su.

Dầu là người mẹ của Con Thiên Chúa quyền năng những Mẹ Ma-ri-a chưa hề xin cho bản thân hay cho Thánh Gia một dấu lạ nào. Có chăng, Mẹ chỉ âm thầm hy sinh và suy gẫm những kỷ niệm Chúa ban cho gia đình (x. Lc 2, 19). Vậy mà, nơi tiệc cưới Ca-na, vì hạnh phúc của nhà cưới, Mẹ Ma-ri-a đã lên tiếng khẩn cầu Chúa “họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3).

Rõ ràng chính tình yêu và lòng quảng đại và sự quan tâm của Mẹ Ma-ri-a đến đồng loại đã làm nên sự biến đổi diệu kỳ: nước lã được biến đổi thành rượu hảo hạng. Trong ân sủng và tình thương, mọi bế tắc sẽ được giải gỡ, những khó khăn sẽ không còn, mọi lo lắng sẽ thành niềm vui và hoan lạc.

Nối tiếp sứ vụ của Chúa, và gương sáng của Mẹ Ma-ri-a, Hội Thánh sẽ mang trọng trách không ngừng loan báo lời Chúa cho muôn người, thể hiện qua những sinh hoạt của Hội Thánh (cụ thể nơi những thành phần như: Đức Giáo Hoàng – các Đức Giám Mục nhất là Đức Giám Mục giáo phận – các linh mục – giáo dân – các vị thừa sai khắp nơi…) bằng lời rao giảng, bằng sự quan tâm trách nhiệm dấn thân, bằng tình yêu và bằng chính mạng sống của mình.

Đứợc Chúa Thánh Thần hướng dẫn (x Ga 14, 17), Hội Thánh xác tín mọi ơn ban đều là quà tặng của Chúa Thánh Thần “có nhiều đặc sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí” (1Cr 12, 4) được ban cho nhiều người khác nhau không phải để mưu ích cho cá nhân mà là ” vì ích chung” (1Cr 12, 7).

Từ đó, Hội Thánh vững vàng tin tưởng chính Chúa Thánh Thần sẽ nhắc cho người tín hữu nhớ việc làm và lời dạy của Chúa Giê-su (Ga 14, 26). Trời đất dẫu qua đi nhưng lời Chúa thì sẽ tồn tại mãi (x.Mt 24, 35).

KẾT

Thành công là mong ước chính đáng của mọi người. Cách riêng thành công của người tín hữu được xây trên nền tảng lời Thiên Chúa, trong sự nguyện cầu của Mẹ Ma-ri-a.

Thế nên, người tín hữu tôn thờ Chúa Giê-su và tin tưởng Người chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã làm người (x. Ga 1, 1. 14), ban lời sự sống vĩnh cửu cho con người (x. Ga 6, 68).

Với tâm hồn vui mừng, tạ ơn, người tín hữu đón nhận Lời Chúa là ngọn đèn, là ánh sáng soi sáng chỉ đường (Tv 118), biến đổi thành họ thành những người con đích thực của Chúa, hầu lãnh nhận “phúc trường sinh bất tử” (2Tm 1, 10). [Mục Lục]

5. Dấu lạ đầu tiên – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Kitô hữu ngày nay dễ dàng biết rằng Đức Giêsu có thể làm phép lạ hóa nước thành rượu thượng hảo hạng, vì Ngài là Thiên Chúa nhập thể; tuy nhiên những người đồng dự tiệc với Đức Giêsu không hiểu được như vậy. Vì vậy, biến cố Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này đã tác động mạnh mẽ trên những người biết sự việc này. Qua dấu lạ này, người ta và các môn đệ của Đức Giêsu nhận ra Ngài là một con người rất đặc biệt, Ngài là người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến.

“Vạn sự khởi đầu nan”. Đức Giêsu bắt đầu sự nghiệp bằng việc rao giảng. Không biết Ngài rao giảng có thành công hơn những thầy dạy khác trong dân Do Thái không? Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu theo sự thỉnh cầu của Đức Mẹ. Tin Mừng Gioan cho thấy Đức Maria là người đầu tiên hy vọng vào Đức Giêsu, tin vào Đức Giêsu! Người ta tin vào Đức Giêsu sau khi thấy dấu lạ Ngài làm, còn Đức Maria tin vào Đức Giêsu trước cả khi Đức Giêsu làm phép lạ. Đức Maria cũng là người biết Đức Giêsu hơn ai khác: Mẹ dám ngỏ lời nhắc nhở Đức Giêsu: “họ hết rượu rồi”.

Đức Maria rất tế nhị, Mẹ biết điều làm cho đôi tân hôn bối rối và không biết giải quyết làm sao. Mẹ biết nếu Đức Giêsu biết điều này, Đức Giêsu có thể làm một cái gì đó cho họ; và Mẹ đã không thất vọng. Qua sự kiện này, chúng ta thấy Đức Mẹ hiểu Đức Giêsu đến độ nào! “Ngài nói sao, các anh cứ làm như vậy”. Đức Giêsu đã can thiệp như Mẹ tiên đoán. Thật là đúng khi các Kitô hữu tôn Mẹ là Mẹ Hằng Cứu Giúp, vì ngày xưa Mẹ đã biết, và đã tế nhị can thiệp với Thiên Chúa cho con người, thì nay Mẹ cũng vẫn làm như vậy.

“Qua dấu lạ này, các môn đệ đã tin vào Ngài” (Ga.2, 11). Các môn đệ của Đức Giêsu tin Đức Giêsu là ai? Chắc chắn không phải các môn đệ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể vì lúc đó mầu nhiệm cao siêu này chưa được con người nhận rõ. Có lẽ các môn đệ tin Đức Giêsu là Người từ Thiên Chúa, Người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến để yêu thương và giúp đỡ dân. Cho dù người ta có biết có ý thức hay không, Đức Giêsu vẫn là Thiên Chúa nhập thể. Thế nhưng, điều này các môn đệ chưa ý thức, chưa biết được vào thời điểm đó. Đức Giêsu cũng là người phải khơi dậy và củng cố đức tin của các môn đệ đối với Ngài. Sau này Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?…. Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?” (Mt.16, 16).

Đức tin của các môn đệ đối với Đức Giêsu mỗi ngày một lớn dần, nhưng không phải là đồng đều đối với tất cả mọi người. Một số môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy nhiều điều khó nghe, đã bỏ Đức Giêsu không theo Ngài nữa: “Lời này chướng quá, ai nghe cho nổi……Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Đức Giêsu nữa” (Ga.6, 60.66). Khủng hoảng đức tin vào Đức Giêsu lên tột đỉnh với biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, nhưng với biến cố Phục Sinh và những lần hiện ra cho các tông đồ, các môn đệ Đức Giêsu tin vào Đức Giêsu mãnh liệt hơn, và biết Ngài là ai rõ ràng hơn sau biến cố Phục Sinh.

Với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra chân tướng của Đức Giêsu: Người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa. Cũng với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra Thánh Thần là ai, sau khi đã nhận ra Đức Giêsu là ai, sau khi nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với họ (Ga.14, 16.26; 15, 26; 16, 13). Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa; Ngài biến đổi lòng người, Ngài giúp con người tin vào Đức Giêsu.

Theo thánh Phaolô, Thánh Thần làm sinh động Hội Thánh qua những ân sủng của Ngài. Tất cả những gì hay tốt con người có, đặc biệt những gì con người đang phục vụ Giáo Hội, đều đến từ Thánh Thần của Ngài. Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để giảng dậy, ban ơn quảng đại để phục vụ anh chị em mình, ban đặc sủng để chữa bệnh. Thánh Thần ở nơi cung lòng mỗi người (Ga.14, 16; 1Cor.3, 16-17).

Thánh Thần đổi mới mọi sự, đổi mới vận mạng một dân thành: thành Yêrusalem không còn bị ruồng bỏ nữa, nhưng được yêu vì. Cũng chính Thánh Thần biến đổi lòng dạ con người, đưa dẫn con người trở về với Thiên Chúa, đưa con người trở về với anh chị em mình. Thánh Thần thanh tẩy tâm hồn con người, thánh hóa con người, làm cho con người trở nên dễ yêu dễ thương, trở nên xinh đẹp trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con người. “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is.62, 5).

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Bạn có cảm nghiệm những gì xảy tới cho những anh em sống xung quanh, liên hệ mật thiết với bạn, và bạn đã xin Thiên Chúa can thiệp không? Xin chia sẻ nếu bạn có điều này.
  2. Chỉ với phép lạ biến nước thành bánh, đã đủ cho người ta kết luận Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể chưa? Tại sao?
  3. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Xin chia sẻ. [Mục Lục]

6. Rượu ân sủng

Đời sống càng khó khăn thì cuộc sống càng lo âu. Mọi lo âu đều nhằm vào việc giải toả những vướng mắc cho cuộc sống. Chúng ta lo lắng về sức khoẻ của mình, về cha mẹ, con cái, bạn bè, về công việc và về những thứ cần chi tiêu…Người chủ tiệc cưới Cana trong bài Phúc Âm hôm nay cũng có những nỗi lo lắng như thế. Ông ta lo lắng vì tiệc cưới mới tới ngày thứ ba mà rượu đã cạn, trong khi đó tiệc cưới tổ chức tới một tuần. Trong truyền thống của người Do thái ngày xưa, tiếp khách là nhiệm vụ thiêng liêng. Vì vậy, nếu thiếu thức ăn, nước uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho gia đình chủ tiệc.

“Họ hết rượu rồi!” Đức Mẹ thấy trước nỗi khổ tâm của gia đình chủ tiệc. Một câu nói tế nhị, không đòi hỏi hay van xin gì mà chỉ trình bày cho Đức Giêsu nỗi băn khoăn của họ. Họ sắp xấu hổ mà báo tin cho khách mời dự tiệc là rượu đã cạn. Ai sẽ tiếp giúp họ? Ai có thể duy trì ngày vui nhất đời họ nếu không phải là Con Mẹ? Qua nỗi lo lắng của Mẹ. Đức Giêsu nhìn thấy dân Do thái đang khắc khoải mong chờ Đấng Cứu Thế giải phóng họ. Nhưng họ chỉ quan tâm đến vật chất, và những hình thức bề ngoài…ĐG đã cố gắng đưa những người tiếp xúc với Ngài đến một trật tự khác, nhưng thường thì không mấy ai hiểu Ngài? Tại sao? Vì Ngài là một con người siêu việt từ trời cao xuống hay là rượu niềm tin của họ đã cạn?

“Họ hết rượu rồi” Đây chính là nét đặc sắc của đức ái, vào bàn ăn, hãy nghĩ đến người bên cạnh hơn là chính mình; người nghèo lúc nào cũng có bên cạnh, xã hội nào cũng có người nghèo, không nghèo vật chất cũng nghèo tinh thần. Người nghèo hiện diện như một hồng ân của Thiên Chúa, người nghèo hiện diện như một lời mời gọi con người rời khỏi cái vỏ ích kỷ của mình mà trao ban chia sẻ, và người nghèo mời gọi chúng ta trao ban, vì có trao ban chúng ta mới cảm nhận được câu nói thật sâu sắc của Đức Mẹ: “Họ hết rượu rồi”. Đức Giêsu coi lời nói nầy như là tiếng thở than của người Mẹ nhân loại đang đau khổ vì những đứa con tội lỗi. Lời cầu nguyện của chúng ta có bao giờ hướng đến một nhân loại đang oằn oại khổ đau như Mẹ không? Bao kẻ bệnh tật, mồ côi, hoạn nạn, lỡ làng, bị thử thách… đang mong chờ lời cầu nguyện của chúng ta. Đức Giêsu đã chấp nhận lời đề nghị của Mẹ, mà nếu Đức Giêsu chấp nhận lời đề nghị của Mẹ thì tôi nghĩ Đức Giêsu trả lời một câu rất dễ thương “Xin Mẹ đừng lo, Mẹ không hiểu việc đang xảy ra đâu; hãy để đó cho Con, Con sẽ có cách thu xếp cho”. Quả thế sáu cái chum mà Đức Giêsu bảo gia nhân đổ đầy nước đã biến thành rượu. Đối với người Do thái, số bảy là con số tròn đầy. Vậy con số sáu là con số chưa đầy đủ, chưa trọn vẹn. Sáu cái chum nước tiêu biểu cho những cái bất toàn của tập quán và lối sống đạo dân Do thái. Đức Giêsu đã đến để kiện toàn những cái bất toàn của lề luật, thay vào đó bằng thứ rượu mới của ân sủng… Cụ thể chúng ta thấy mỗi cái chum có thể chứa 80-120 lít. Đức Giêsu đã khiến nước lã trong sáu cái chum biến thành rượu ngon, tất cả khoảng 500-700 lít rượu. Sự kiện này chúng ta cũng đừng hiểu theo nghĩa đen. Vấn đề là khi ân sủng của Chúa đã đến với mọi người thì ân sủng ấy có đủ để cung cấp cho tất cả.

“Đổ đầy tới miệng”. Trong đời sống, chúng ta cũng muốn đổ đầy những tiện nghi vật chất như: Một căn nhà sang trọng, một chiếc xe Nouvo, một chiếc di động Nokia đời mới… để sống hợp với nếp sống văn minh, để sống cho ra người có văn hoá, để sống xứng với phẩm giá con người. Điều đó xem ra không có gì ngược lại với Tin Mừng, xem ra cũng là một ước mơ chính đáng và bình thường. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng quên ước mơ sắm cho mình một bình rượu (không phải là OX, Napoleon, Martin…) nhưng là rượu ân sủng, uống rượu nầy chúng ta sẽ được đức tin, sức mạnh và tình yêu trong Đức Giêsu.

Chi tiết: “Họ hết rượu rồi” so sánh với chi tiết: “đổ đầy tới miệng” cho thấy rằng; những gì chúng ta đã hết, đã cạn thì hãy để cho Chúa đổ đầy miễn là chúng ta có một tâm hồn đơn sơ trong sạch để mau mắn nhận lãnh ơn Ngài.

Chuyện kể rằng:

Có một bà lão đạo đức, nhưng nghèo đến nỗi không có đủ tiền mua gạo ăn. Hôm nọ, đói quá không làm gì nổi, bà chỉ còn cách quỳ gối giữa nhà, hết lòng tha thiết van nài cùng Chúa: “Lạy Chúa! Xin giúp con có gạo nấu cơm ăn chiều nay, nếu không, chắc con chết mất. Xin Chúa thương con ” Lúc đó, một người vô thần tình cờ đi ngang, anh ta giở một trò để tiêu khiển niềm tin của bà. Anh chạy lẹ ra tiệm tạp hoá gần đó, mua một ký gạo, rồi trở về ném túi gạo qua lỗ vách lá, rơi bịch trước mặt bà. Bà lão vô cùng mừng rỡ và hết sức ngỡ ngàng, đến nỗi quên cả đói khát vừa hô to: “Cám ơn Chúa, con cám ơn Chúa.”

Bà vừa chạy vừa khoe với lối xóm là Chúa đã nhận lời bà cầu xin. Thấy bà già đã trúng kế mình, anh chàng vô thần cười chế nhạo, và nói rõ là anh ta vừa ra tiệm tạp hoá mua túi gạo, rồi ném qua lỗ vách cho bà. Nhưng bà lão đáp:

” Có thể là anh mang gạo đến cho tôi nhưng tôi bảo đảm là lời tôi cầu nguyện đã được Chúa nhận lời. Tôi cầu xin chiều nay có gạo nấu cơm, và Chúa đã ban cho tôi y như lời tôi cầu. Tạ ơn Chúa, cám ơn anh. “

Bà lão đã hết gạo, bà đã xin gạo và được gạo, bà tạ ơn Chúa và nhận ra đó là ơn huệ Chúa ban, cho dù gạo đó đến từ một âm mưu đen tối. Nhưng ai âm mưu thế nào không cần biết, chỉ biết tạ ơn Chúa vì đó là ơn lành Chúa ban.

Còn chúng ta, nếu chúng ta chưa có gì trong đời sống cầu nguyện, thì hãy bắt đầu ngay hôm nay. Nếu lòng chúng ta chưa đầy trong đời sống bác ái, thì hãy bước đi đến với người nghèo khổ hoạn nạn, hãy chia sẽ những nụ cười, những cái bắt tay, những lời hỏi thăm… Nếu chúng ta đang lo lắng về những thứ cần chi tiêu trong cuộc sống, thì chỉ có một điều đáng lo là phần rỗi linh hồn. Hãy siêng năng tham dự thánh lễ, bàn tiệc Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa là lương thực không thể thiếu trong đời sống đức tin… bất cứ lúc nào, khi Chúa bước vào một đời sống, thì đời sống ấy nhận được một phẩm chất mới, giống như nước lã biến thành rượu ngon vậy. Những sầu muộn lắng lo sẽ được giải toả. Lúc đó chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin là tâm tình tạ ơn. Amen. [Mục Lục]

7. Ngài là ai? – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Đức Giêsu sống một thời gian dài ở Nadarét, như một người bình thường, một người thợ làm vất vả mới có đủ lương thực sống. Sau ba mươi năm trời, nghe tin Gioan làm phép rửa thống hối tại sông Giordan, Đức Giêsu được thúc đẩy để đi chịu phép rửa, rồi Ngài được Thánh Thần dẫn vào sa mạc để ăn chay cầu nguyện, Ngài thấy sứ mạng và bắt đầu ra đi rao giảng, thu tập các môn đồ. Hôm nay Tin Mừng cho thấy Ngài xuất hiện ở tiệc cưới Cana.

Đức Maria tin vào Con mình

Đức Maria cảm thông với đôi tân hôn và những người trong gia đình: nếu hết rượu giữa chừng, người ta sẽ đàm tiếu, và gia đình nghèo này làm sao vượt qua được? Đức Maria nói với Đức Giêsu: “Họ hết rượu rồi”. Tại sao Đức Mẹ lại nói với Đức Giêsu? Như thể Đức Mẹ hiểu phản ứng của Đức Giêsu trước những hoàn cảnh như vậy!

Hãy đặt mình vào trường hợp những người ở bên Đức Giêsu và Đức Mẹ lúc đó: họ hiểu gì? Có lẽ họ chẳng hiểu gì! Có thể có người nghĩ: “bà này vô duyên! Họ hết rượu thì kệ họ, con bà làm gì được!” Và Đức Giêsu đã trả lời Đức Mẹ như vậy: “Việc đó có liên quan gì đến bà và tôi?”. Tuy vậy, Đức Mẹ vẫn nói với những người giúp việc: “Ngài nói sao cứ làm như vậy”. Đức Maria hiểu Đức Giêsu hơn bất cứ ai, dường như Đức Mẹ biết Đức Giêsu sẽ làm một cái gì đó để cứu gỡ cặp hôn nhân và gia đình trong cảnh khốn cùng này. Quá tuyệt thái độ của hai người hiểu nhau ở đây.

Đức Giêsu đã làm điều Ngài đã làm. Phải chăng vì Đức Mẹ, hay cứ bình thường Ngài phản ứng như vậy? Có thể không vì Đức Mẹ, nhưng Đức Mẹ biết Đức Giêsu sẽ phản ứng trước hoàn cảnh như vậy: Ngài vẫn động lòng trước nỗi khổ của con người.

Các môn đồ tin vào Đức Giêsu

Những người giúp việc biết nước đã biến thành rượu. Người chủ tiệc không biết rượu từ đâu có, nhưng các người giúp việc thì biết. Chắc là những người giúp việc ngạc nhiên và thán phục Đức Giêsu.

Ngài là người của Thiên Chúa, vì đã làm được việc phi thường. Các môn đồ đã tin vào Ngài. Ở vào thời điểm này, chưa có ai biết Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì người Do Thái tin Thiên Chúa là Đấng duy nhất, họ chưa biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị. Thiên Chúa là Ba Ngôi chỉ được mặc khải nhờ Đức Giêsu sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết mà thôi.

Niềm tin và sự hiểu biết của các tông đồ mỗi ngày mỗi tăng, và cũng có những khủng hoảng như khi Đức Giêsu mặc khải “mình Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống”. Một số môn đồ bỏ đi vì thấy lời của Đức Giêsu chói tai quá (Ga.6, 60.67). Cuộc khủng hoảng cao độ nhất là biến cố Đức Giêsu bị giết trên thập giá. Sau khi Đức Giêsu sống lại, nhờ ơn của Thánh Thần các tông đồ đã nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể.

Hồng ân và đặc sủng đều do Thánh Thần

Thánh Phaolô cho biết, tất cả đều do Thánh Thần, ngay cả hồng ân đức tin: “không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà lại không do Thánh Thần” (1Cor.12, 3).

Tất cả đều từ Thiên Chúa mà đến, đều do một Chúa, đều nhờ Thánh Thần. Ơn phục vụ, ơn khôn ngoan, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định các thần, ơn ngôn ngữ, ơn giải thích, v.v… tất cả đều từ Thiên Chúa, đều do Thánh Thần mà có.

Ơn sủng Thiên Chúa đang bao trùm chúng ta. Chúng ta hiện hữu, ăn uống, nghỉ ngơi, làm việc, sức khỏe, học hành, hiểu biết, v.v…. tất cả đều bởi Thiên Chúa, đều do Thánh Thần. Chúng ta đang sống trong tình yêu. Hãy nhận biết điều đó, để hạnh phúc và cảm tạ Thiên Chúa.

Chính nhờ Đức Giêsu mà chúng ta có tất cả. Đức Giêsu là qùa tặng qúy nhất mà Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta, thì Ngài còn gì với chúng ta nữa! Thiên Chúa là quà tặng qúy nhất mà mỗi người chúng ta có, và không ai có thể tước mất được. Tạ ơn Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Bạn có kinh nghiệm về hai người hiểu nhau không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm đó nếu có thể được.
  2. Bạn có kinh nghiệm (tin) Thiên Chúa yêu bạn, và sẽ làm điều tốt nhất cho bạn không? Bạn có kinh nghiệm “muốn gì Thiên Chúa cũng chiều” bạn không? Xin chia sẻ nếu có thể được.
  3. Điều gì quý nhất với bạn? Bạn hay cầu nguyện để được điều gì nhất? Bạn có hay cầu nguyện xin Chúa ban cho bạn điều bạn cho là qúy nhất không? Nếu không thì tại sao?
  4. Bạn có kinh nghiệm “khủng hoảng đức tin” không? Làm sao bạn vượt qua được? [Mục Lục]

8. Hôn ước giữa Thiên Chúa với loài người

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

CHÚA GIÊSU HÓA NƯỚC THÀNH RƯỢU

(Ga 2,1-11)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ nghe Thiên Chúa ngỏ lời “tỏ tình” với loài người chúng ta. Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa phán: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.

Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào.

II. Gợi ý sám hối

Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng đáp lại, chúng con yêu thương Chúa quá ít.

Vì yêu thương chúng con nhiều, nên Chúa hy sinh rất nhiều cho chúng con, thậm chí Chúa đã chịu nạn chịu chết vì chúng con. Phần chúng con vì yêu thương Chúa ít nên chúng con ít khi chịu hy sinh vì Chúa.

Yêu thương là cho đi. Chúa yêu thương chúng con vô cùng nên đã ban cho chúng con vộ vàn ơn sủng. Còn chúng con thì chẳng có gì để dâng cho Chúa.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Is 62,1-5)

Bài thơ này của Đệ Tam Isaia được sáng tác sau khi dân Do Thái được thoát cảnh lưu đày, hồi hương về cố quốc.

Khi nhìn ngược về quá khứ, tác giả hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với tội bất trung của dân. Nhưng khi nhìn vào hiện tại, tác giả cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa: dù dân đã phản bội nhưng Chúa vẫn yêu thương. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng: “Chẳng còn ai réo tên ngươi là ‘đồ bị ruồng bỏ’, xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘phận bác duyên đơn’. Chẳng những thế, Chúa còn yêu thương họ như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.

  1. Đáp ca (Tv 95)

Thánh vịnh 95 là tâm tình của người ý thức tình thương Thiên Chúa: vui mừng, ca tụng và loan báo “Hãy kể cho muôn dân được biết những kỳ công Chúa đã làm”.

  1. Tin Mừng (Ga 2,1-12)

Tường thuật này không phải đơn giản nói về một bữa tiệc cưới, nhưng còn là “dấu chỉ đầu tiên” qua đó Chúa Giêsu “bày tỏ vinh quang của Ngài” để cho “các môn đệ tin vào Ngài” (câu 11). Chúa bày tỏ những gì?

Trước hết Ngài cho thấy Ngài là Đấng khai mở một thời kỳ hoan lạc mới. Thánh Kinh thường dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Messia. Trong đám cưới ở Cana, lẽ ra chú rể phải cung cấp đủ rượu cho khách dự tiệc, và như thế bữa tiệc mới vui mừng trọn vẹn. Thế nhưng chú rể ấy đã không chu toàn. Kẻ cung cấp rượu và làm cho bữa tiệc vui mừng trọn vẹn lại chính là Chúa Giêsu.

Ngài còn cho thấy Ngài đến để thiết lập một tín ngưỡng mới thay thế tín ngưỡng đã quá lỗi thời của người Do Thái: bài tường thuật có nhắc đến những chum đựng nước để cho người ta thanh tẩy trước khi dự tiệc. Đấy là một tục lệ tiêu biểu của đạo cũ. Hôm nay những chum ấy đã được Chúa Giêsu cho tràn ngập rượu mới, lại là thứ rượu ngon vượt sức tưởng tượng của người ta. Nghĩa là tín ngưỡng mới mà Chúa Giêsu thiết lập vượt xa tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề ngoài.

Bài tường thuật cũng nói tới “giờ” (Chúa Giêsu nói với Đức Maria: “Giờ con chưa đến”). “Giờ” là lúc Chúa Giêsu được vinh quang khi chịu chết trên Thập giá để tuôn ơn cứu độ cho loài người. Hôm nay ở Cana, tuy chưa tới “giờ” ấy, nhưng Ngài cũng tỏ chút vinh quang cho các môn đệ và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.

Vinh quang Chúa đã được hé lộ trước cũng do công của Đức Maria, kẻ đã tế nhị thấy hoàn cảnh khó khăn của chủ nhà và chủ động đến xin Chúa Giêsu can thiệp.

4. Bài đọc II (1 Cr 12,4-11) (Chủ đề phụ)

Có nhiều chia rẻ, đố kỵ và tranh chấp trong giáo đoàn Côrintô: người có tài thì khinh chê kẻ khác, kẻ bất tài thì đố kỵ, những kẻ có tài lại ganh ghét nhau.

Thánh Phaolô nhắc cho họ nhớ: (1) tất cả mọi tài năng đều là do Chúa Thánh Thần ban; (2) mà ơn Chúa Thánh Thần ban thì khác nhau nơi mỗi người; (3) và tất cả những ơn ban đó đều nhằm phục vụ lợi ích chung của Giáo Hội.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Tình yêu của Chúa

Trong các thứ tình yêu, tình yêu nào nồng nàn tha thiết nhất? Thưa là tình cha mẹ dành cho con cái, và tình vợ chồng đối với nhau. Nếu so sánh hai thứ tình đó với nhau thì tình yêu hôn nhân chắc là mạnh hơn. Bởi đó sách Sáng thế đã viết “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình” (St 2,24). Chúa Giêsu cũng đồng ý như thế nên đã trích dẫn lại câu ấy khi tranh luận với các người biệt phái (Mt 19,5). Cũng vì lý do đó nên khi muốn tỏ cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương loài người đến mức nào, Thiên Chúa đã dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa.

Trong tình yêu vợ chồng, điều gì đáng quý nhất? Thưa đó là sự hy sinh cho nhau và chung thuỷ với nhau. Hy sinh cho nhau nhiều chừng nào thì đó là bằng chứng yêu thương nhau nhiều chừng ấy. Dù gặp phải bao sóng gió, dù những khuyết điểm lỗi lầm thường xuyên đe dọa, nhưng vợ chồng vẫn yêu thương nhau đến chết, đó mới là tình yêu chân thật vững bền.

Thế nhưng, trong một trăm đôi vợ chồng, có bao nhiêu đôi hy sinh và chung thuỷ được như thế.

Rốt cuộc, dù con người được nếm vị ngọt của nhiều loại tình yêu, nhưng rất nhiều lần cũng phải thất vọng với những tình yêu nhân loại, cho dù đó là tình vợ chồng tha thiết nhất.

Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới là tình yêu chân thật và cao cả nhất: vì yêu thương chúng ta, Chúa Cha đã hy sinh ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta; vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã hy sinh đến nỗi chịu chết vì chúng ta: “Không có tình yêu nào cao trọng bằng tình yêu của người dám thí mạng vì người mình yêu”. Mặt khác, dù loài người luôn phản bội, Thiên Chúa vẫn tha thứ và vẫn cứ yêu. Loài người đã nhiều lần bỏ Chúa, nhưng Chúa không bao giờ bỏ loài người.

Con người là một sinh vật yêu thương: con người cần yêu thương và cần được yêu thương. Chúng ta hãy tìm đến tình yêu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ chẳng phải thất vọng bao giờ.

* 2. Phép lạ ở Cana

Thời nay đang có một cuộc khủng hoảng về gia đình: số người lập gia đình rồi li dị càng ngày càng nhiều; nhiều người trẻ không muốn lập gia đình; một số người chủ trương nếu thích nhau thì cứ sống chung với nhau, đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, cần gì mà phải cam kết sống chung suốt đời.

Cuộc sống gia đình quả là rất khó khăn: Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm chí còn thiếu rượu. Tình yêu thủy chung, luôn cho đi mà không hề mệt mõi, không ngừng nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Một tình yêu như thế ở thời nay quả là một phép lạ.

Ở Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ như thế: khi người ta thiếu rượu, Ngài đã làm cho có rượu dồi dào; và rượu ấy Ngài đã làm ra từ những chum nước lã. Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai thực lòng cầu xin Ngài. Tại sao những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn không cầu xin phép lạ ấy? Tại sao anh chị em không nhờ Đức Mẹ chuyển lời cầu xin?

* 3. Ý nghĩa sâu xa của phép lạ hóa nước thành rượu

Tin Mừng theo Thánh Gioan thường có ý nghĩa rất sâu xa. Chẳng hạn đoạn Tin Mừng này, tuy nói về một đám cưới nhưng ý nghĩa không chỉ gói gọn trong đời sống hôn nhân mà bao trùm cả đời sống mọi người; tuy nói về nước hóa thành rượu nhưng chỉ đến tất cả những thứ mà quyền năng Chúa Giêsu có thể biến đổi.

Việc Chúa Giêsu hóa nước thành rượu được Thánh Gioan gọi là “dấu chỉ” và còn là “dấu chỉ đầu tiên để bày tỏ vinh quang của Ngài”. Dấu chỉ là cái gì đó trước mắt chỉ tới cái khác. Cái trước mắt ở Cana là nước thành rượu. Cái khác mà nước thành rượu chỉ tới là gì? Thưa là điều được ngôn sứ Isaia tiên báo trong bài đọc I: đó là ngày mà Thiên Chúa biến đổi cuộc sống con người thành hoan lạc như tiệc cưới: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.

Chúa Giêsu đã đến khai mạc ngày hoan lạc ấy. Ở Naim, Ngài đã biến đổi những giọt nước mắt đau thương của người mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi con mình sống lại. Ở Giêricô, Ngài đã biến đổi cõi lòng héo úa vì ích kỷ của ông Dakêu thành một tâm hồn tươi tốt quãng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập giá, Ngài vẫn tiếp tục biến đổi người trộm lành đang tuyệt vọng thành người khách mời đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục sinh, Ngài đã biến đổi sự chết thành sự sống.

Nếu đời bạn đang tẻ nhạt như nước lã. Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ biến đổi cho nước lã ấy thành rượu ngon tuyệt vời.

* 4. Hạnh phúc mong manh

Ở đất Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Khi vượn mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho con uống, xong rồi lăn ra chết.

Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy kêu gào thương xót chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ kêu gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.

***

Tình mẫu tử của giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động: Tuy nhiên, chúng ta cũng có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn lao hơn gấp bội. Đó chính là Mẹ Maria.

Có thể nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường thuật về “Tiệc cưới Cana”. Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của người.

Theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến “ngày thứ ba” thì tiệc cưới Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối khó xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy. Sự nhạy cảm và lòng thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Một câu nói ngụ ý nài xin kín đáo.

Nhưng lời đáp trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt: “Tôi với bà có can chi? Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4). Qua câu này Chúa Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người: Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Chắc Mẹ cũng không hiểu rõ chữ “Giờ” tức là giờ vinh quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ, Mẹ mong Con làm một điều gì đó: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm.

Thế là Chúa Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai rao giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy “Giờ” tôn vinh chưa đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua phép lạ Người sắp thực hiện để “Các môn đệ tin vào Người” (Ga 2,11).

Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở.

Nhờ sự đóng góp của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành 700 lít rượu ngon, để niềm vui của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn.

Ngày nay, Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa: “Họ hết rượu rồi”.

Để cho bao mối tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu.

Để cho bao gia đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương.

Để cho bao tâm hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.

Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu ước thành rượu ngon của Tân ước, để mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu: yêu Chúa và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.

Nếu Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập một trật tự mới; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này thành một thế giới mới: chân thật, công bằng và yêu thương.

Lạy Chúa, chúng con luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc thật mong manh. Xin Chúa hãy đến dự những bữa tiệc cuộc đời chúng con, để mang lại cho chúng con một hạnh phúc vững bền.

Xin Mẹ Maria luôn là đấng Bầu Cử cho chúng con trước toà Chúa mỗi khi chúng con gặp khó khăn bối rối, nhất là khi chúng con đã vơi cạn rượu nồng tình yêu. Amen. (TP)

* 5. Đức Maria, gương mẫu của sứ vụ

Tin Mừng thánh Gioan chỉ nhắc tới Đức Maria có hai lần: một lần ở Cana lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, và một lần dưới chân thập giá lúc Ngài hoàn thành sứ vụ. Hai lần ở đầu và cuối, ngụ ý bao hàm tất cả. Các Tin Mừng nhất lãm nói rõ hơn về điều này.

Trong biến cố Truyền tin, khi được hỏi có muốn làm mẹ Đấng Cứu Thế hay không, Người đã bỏ ý riêng sang một bên để quảng đại “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là sẵn sàng gác sang một bên những chương trình riêng của mình, để đáp lại lời Chúa mời hợp tác trong chương trình của Ngài.

Trong biến cố Thăm viếng, khi vừa hay tin người chị họ của mình đã mang thai 6 tháng và đang cần người giúp đỡ, Đức Maria đã vội vã đến nơi. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến: thấy nhu cầu, và mau mắn phục vụ.

Trong biến cố Cana, Đức Mẹ thoáng nhận ra vẻ bối rối của nhà chủ, Người hiểu ngay là họ thiếu rượu, và Người đã xin Con giúp đỡ. Sứ vụ đôi khi cần phải tế nhị: nhận ra điều người ta đang cần, nhưng ý thức rằng bản thân mình không làm gì được, nên giới thiệu cho kẻ có khả năng giúp đỡ.

Trên đồi Golgotha, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn con yêu dấu đang hấp hối, rất đau lòng nhưng chỉ biết lặng thinh. Sứ vụ có khi còn có nghĩa là chấp nhận bất lực không làm gì được, chỉ biết phó thác.

Tất cả chúng ta đều được Chúa trao sứ vụ: sứ vụ đối với gia đình, sứ vụ với Giáo Hội, sứ vụ với xã hội, sứ vụ với tất cả mọi người. Chúng ta hãy nhìn gương Đức Mẹ và bắt chước Người. (FM)

* 6. Chuyện minh họa

a/ Con sâu trong tảng đá

Một hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.

Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên: “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.” (Trích “Món quà giáng sinh”)

b/ Cái nhìn của bậc thánh nhân

Một buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ: từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.

Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy được.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, chỉ Thiên Chúa mới có thể đem lại cho con người niềm vui chân thật và hạnh phúc trọn vẹn. Tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh là đại gia đình của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi thành viên trong đại gia đình này / không chân thành yêu thương và quảng đại nâng đỡ nhau.
  2. Trên thế giới ngày nay / tình trạng đổ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia đình đang gia tăng đến mức báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn được hạnh phúc và bình an.
  3. Gia đình tốt thì xã hội và Giáo hội mới tốt được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình Kitô hữu / luôn quan tâm giáo dục đức tin và nhân bản cho con cái của mình.
  4. Một trong những điều kiện hết sức quan trọng / đem lại hạnh phúc lâu dài cho đời sống hôn nhân và gia đình / đó là cần tìm hiểu kỹ lưỡng và chuẩn bị chu đáo trước khi kết hôn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho giới trẻ của giáo xứ chúng ta / biết tích cực tham gia các khóa dự bị hôn nhân / trước khi cử hành bí tích Hôn phối.

Chủ tế: Lạy Chúa, nếu không có Chúa ban ơn giúp sức, chúng con không thể làm được việc gì thành công. Vậy xin thương ban ơn trợ giúp để mọi việc làm của chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Chúng con cầu xin.

VI. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Ở tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước hóa thành rượu, nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria. Giờ đây, chúng ta cũng hãy nhờ Đức Mẹ chuyển cầu và kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu, dâng lên Chúa Cha những lời nguyện chân thành của chúng ta.

– Trước kinh Đây Chiên Thiên Chúa: Rượu ở tiệc cưới Cana là hình bóng của Bàn Tiệc Thánh mà chúng ta sắp được tham dự. Chúng ta hãy cảm tạ lòng nhân lành Chúa vì hồng ân này.

VII. Giải tán

Chúng ta đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa qua Thánh lễ vừa tham dự. Giờ đây tuy Thánh lễ sắp kết thúc nhưng chúng ta hãy tiếp tục sống trong tình yêu của Ngài, nhất là hãy trở thành dấu chỉ tình yêu ấy trước mặt mọi người. [Mục Lục]

9. Niềm vui trong thời Đấng Thiên Sai

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Minh Chánh)

1/ Con người sống trên trần gian ngoài cơm áo gạo tiền, danh vọng địa vị, vậy còn có điều gì làm thoả mãn cho cuộc sống nữa hay không? Chắc chắn là có. Bởi những cái mau qua của trần thế không bao giờ đem đến hạnh phúc thật cho con người. Điều mang đến hạnh phúc đích thực cho con người là chính Chúa. Vì thế Chúa chính là nguồn vui của con người, như lời Thánh Vịnh đã nói: “Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con.” (Tv 43.4) Vì Chúa là sự hoan lạc, cho nên nơi đâu có sự hiện diện của Chúa, thì nơi đó niềm vui cùng với hạnh phúc sẽ dâng trào.

2/ Trang Tin mừng trong thánh lễ hôm nay sẽ là bằng chứng nói lên niềm vui bắt nguồn từ Thiên Chúa:

Trong khung cảnh tiệc cưới tại Cana, ta thấy Chúa Giêsu đã đem niềm vui đến cho gia đình chủ hôn và những người dự tiệc rất nhiều: Trước hết bằng sự hiện diện trong tiệc cưới để chia vui với gia đình chủ hôn, thì Chúa Giêsu đã làm tăng thêm niềm vui cho gia đình này. Thứ đến, niềm vui ấy còn được nhân rộng hơn, không những cho gia đình chủ hôn, mà còn cho Mẹ Maria, các Tông đồ và những thực khách dự tiệc, khi Chúa đã làm dấu lạ hoá nước thành rượi ngon, để nối dài niềm vui cho hết mọi thành phần đang tham dự bữa tiệc hôm nay. Chắc chắn những ai tham dự bữa tiệc có một không hai này, họ rất cảm phục và vui sướng trước việc tốt lành mà Thiên Chúa đã thực hiên cho họ.

3/ Việc Chúa Giêsu hoá nước thành rượu đó là biển hiện thời của Đấng Thiên Sai:

Trong thời hạnh phúc ấy: nước mắt sẽ thay cho tiếng cười, tang chế đau khổ sẽ biến thành niềm vui, mọi người sẽ được Thiên Chúa tiếp đãi bữa tiệc trong Vương quốc của Ngài. Vì thế thật ý nghĩa khi Tiên tri Isaia đã báo trước thời của Đấng Thiên Sai như sau:” Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon….. trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân,và tấm màn trùm lên muôn nước.”(Is 25.6)

4/ Hình ảnh muôn dân được Thiên Chúa quy tụ trên Núi thánh để tiếp đãi bữa tiệc, hay là hình ảnh tiệc cưới tại Cana sau khi Chúa Giêsu hoá nước thành rượu ngon, đó là dấu chỉ báo trước”Giờ” Đức Giêsu sẽ đến sau này. “Giờ” Đức Giêsu đến là “Giờ” gì? Đó không phải là giờ Chúa tiếp tục đãi dân chúng bữa tiệc với thịt béo và rược ngon. Và đó cũng không phải là lúc Chúa Giêsu lại làm dấu lạ hoá nước thành rượu ngon nữa. Nhưng “Giờ’ Chúa Giêsu đến đó là thời gian để Chúa quyết định hoàn tất chương trình cứu độ Chúa Cha đã trao phó. “Giờ” đó chính là lúc Chúa phải đổ máu để rửa sạch tội lỗi con người. “Giờ” đó chính là lúc Chúa phải hy sinh để cứu sống con người.

Nếu như trong nghi lễ thanh tẩy của người Do Thái, máu các con dê, bò được rẩy lên mình những người nhiễm uế để họ được thanh tẩy, thì trong giờ hy sinh của Đức Giêsu, Máu Chúa được đổ ra sẽ mạng lại hiệu lực cho muôn người rất nhiều. Vì nhờ Máu hy sinh của Chúa, nhiều người sẽ được thanh tẩy lương tâm đen tối, nhờ đó “nhiều người được tha tội”.

Nếu như dấu lạ hoá nước thành rượu Chúa đã làm tại tiệc cưới Cana đem lại rất nhiều niềm vui cho nhiều người, thì trong “Giờ” hy sinh của Đức Giêsu, Máu Chúa được đổ ra đem lại niềm vui trọn vẹn đích thực cho hết mọi người. Niềm vui trọn vẹn đích thực đó là niềm vui vì được Chúa Cứu Độ, được ơn Cứu Độ. Vì thế, chén rượu mà Đức Giêsu cầm trên tay để chúc tụng Thiên Chúa trong bữa tiệc Vượt Qua trước lúc Chúa chịu chết, đó chình là chén Máu Chúa đổ ra để cứu độ con người. Chén Máu đó là chén Máu của niềm vui, chén Máu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.

5/ Ngày hôm nay khi mỗi lần chúng ta đến dâng thánh lễ, đó cũng là thơì gian chúng ta đang chứng kiến “Giờ” hy sinh của Đức Giêsu. Giờ hy sinh của Chúa trong thánh lễ không phải là thời gian của quá khứ, nhưng là “Giờ” hiện tại; “Giờ” thánh hoá chúng ta; “Giờ’ đem đến hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta.

Vậy khi đang sống trong môi trường quá ồn ào, bởi vì người ta đang chạy đua với nhau để tìm kiếm:ảnh hưởng, tiền bạc, lợi nhuận, danh vọng, địa vị, thú vui…… Sống trong môi trường như thế, là người Công giáo chúng ta còn cảm thấy “Giờ” của Chúa còn cần thiết cho cuộc sống nữa hay không? Nếu cảm thấy “Giờ” của Chúa không còn cần thiết, thì đó là sự sai lầm và nguy hiểm nghiêm trọng cho đời sống chúng ta. Chính cái sai lầm và nguy hiểm ấy, nó sẽ lôi kéo chúng ta ra khỏi Bàn tiệc hạnh phúc mai sau trong Vương quốc Thiên Chúa. Còn một khi chúng ta tin rằng “Giờ’của Chúa luôn cần thiết cho cuộc sống, luôn luôn đem lại giá trị cho con người đó là niềm vui hạnh phúc mai sau, thì chúng ta hãy cùng tham dự vào “Giờ” hồng phúc này. Phải gắn liền đời sống với “Giờ” Vượt qua của Chúa hằng ngày trong Thánh lễ, vì “Giờ” Vượt qua của Chúa đó là “Giờ” thánh, “Giờ” biến đổi chúng ta để được nên một vơí Ngài.

Khi ý thức tầm quan trọng “Giờ” cứu độ của Đức Giêsu; mỗi người chúng ta trong cuộc sống hãy “bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa niềm vui của lòng ta”. Đến bàn thờ Thiên Chúa để được hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa, để “nâng chén mừng ơn cứu độ” mà Chúa ban cho chúng ta. Vì hôm qua, hôm nay và mãi mãi: chỉ có Chúa chính là niềm vui đích thực của đời ta. Amen. [Mục Lục]

10. Tiệc cưới Cana – Lm. Damien OFM

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan đề cập đến ba vấn đề, và tất cả đều liên hệ đến tình yêu:

– Con Thiên Chúa nhập cuộc

– Trong tình yêu, người thứ ba là thừa?

– Phép lạ tại Cana, vì người nghèo.

Con Thiên Chúa nhập cuộc.

Chúa Giêsu làm người, một con người trọn vẹn và bình thường như bao nhiêu người khác: cũng lao động, cũng lên Giêrusalem dự lễ như mọi người Do thái khác, cũng đi dự đám cưới của bà con hay của xóm giềng. Chúa sống bình thường đến nỗi không ai nhận ra Chúa, cứ tưởng Ngài cũng chỉ là một con người bình thường và tầm thường như bao con người khác ở cái xứ Galilê nghèo khổ ấy. Ngài đã nhập cuộc một cách trọn vẹn, sống hòa đồng với mọi người giữa một xóm nghèo.

Hôm nay Ngài đi dự đám cưới ở Cana, chắc là đám cưới của một người bà con thân thuộc gì đây, vì cả Đức Mẹ và các môn đệ cũng đi dự. Khi một linh mục hay một Giám mục đi dự một đám cưới, chẳng qua là vì tình nghĩa, chứ không phải vì thích ăn uống. Ở đây Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài đến dự đám cưới nầy cũng vì tình nghĩa,vì thương yêu,vì đây có lẽ là một đám cưới nhà nghèo, thiếu rượu nửa chừng! Một đám cưới ở cái xứ Galilê nghèo khổ nầy.

Đọc Phúc Am, thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu được người nầy người nọ mời đi ăn, nhất là Ngài thường hay đồng bàn với người tội lỗi và bọn thu thuế, những con người nghèo về mặt xã hội. Ngài có vẻ thân tình với những lớp người ấy, cho nên người Biệt Phái và Luật sĩ mới chê trách người. Từ đó, chúng ta thấy Ngài cũng có mục đích khi ăn uống ở nhà nầy nhà nọ: “Người bệnh mới cần đến thầy thuốc”; ‘người tội lỗi mới cần cứu vớt’. Hôm nay cũng thế, Ngài đến dự tiệc cưới cũng vì để tỏ tình liên đới với người nghèo.

Trong tình yêu, người thứ ba là thừa?

Trong một vở kịch nói, một thanh niên cùng với một người bạn trai đến chỗ hẹn với cô bồ của mình. Khi người con gái đến, chào hỏi nhau xong, người bạn trai bảo:”Trong tình yêu, người thứ ba là thừa”,nói xong, anh ta bỏ hai người lại, ra đi. Và hai người kia cảm thấy anh nói thế là đúng, nên nhìn nhau mỉm cười, Thầm cám ơn anh bạn tế nhị.

Trong tình yêu nam nữ là thế, nhưng trong hôn nhân công giáo, câu đó có đúng không? Trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, câu đó không luôn luôn đúng, bởi vì trong đám tiệc hôm nay cũng như trong cuộc đời của cặp tân hôn nầy, nếu không có Chúa hiện diện thì không xong rồi: đám cưới gì mà nửa chừng lại hết rượu? Hạnh phúc gia đình gặp xui xẻo ngay từ đầu.

Trong tình yêu gia đình, không chỉ có hai người yêu nhau là có thể tạo hạnh phúc lâu bền cho nhau được. Phải có Chúa hiện diện trong tình yêu ấy. Chuá đã kết hợp họ với nhau để sống hạnh phúc, nhưng hạnh phúc ấy thật mong manh, phải có Chúa giữ gìn, ban ơn và che chở họ. Những người đã lập gia đình lâu năm, trải qua kinh nghiệm những khó khăn của đời sống hôn nhân, đều cảm nghiệm được rằng sự hiện diện của Chúa trong tình yêu, trong đời sống gia đình là rất cần thiết. Những gia đình gặp nhiều khó khăn, những cặp bỏ nhau dễ dàng là vì những gia đình ấy thường thiếu đi sự hiện diên của Chúa trong gia đình họ.

Các môn đệ tin Người.

Bài tin Mừng nầy kết thúc bằng câu: “Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên nầy tại Cana xứ Galilê, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.”Theo Gioan, phép lạ đầu tiên nầy là để tỏ vinh quang Chúa, cũng cố niềm tin cho các môn đệ. Chúa đã tỏ mình ra khi ba vua đến thờ lạy, khi Chúa chịu phép rửa, tầng trời mở ra, có tiếng Chuá Cha phán và có Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên Ngài, khi Chúa biến hình trên núi Taborê, nay Chuá lại tỏ mình ra bằng một phép lạ nhãn tiền:biến nước thành rượu. Đó là những sự kiện có tính hiển linh, Chúa tỏ mình ra là Thiên Chúa quyền năng.

Suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay, tôi thấy Chúa rất gần gũi tôi, nhất là những lúc tôi hay gia đình tôi gặp những chuyện không may hay nghèo khổ thiếu thốn -như đám cưới của đôi tân hết rượu nửa chừng- vì Chúa đã nhập cuộc và hiện diện với tôi trong cuộc sống. Hạnh phúc của tôi và của gia đình tôi tùy thuộc vào việc tôi có biết mời Chúa đến sống trong tôi và gia đình tôi hay không. Va khi có Chuá trong cuộc sống, Chuá luôn luôn sẵn sàng tỏ mình ra với tôi, can thiệp đúng lúc bằng cách nầy hay cách khác, biến những thử thách đau khổ thành niềm vui trong đời.

Thiên Chuá không ở xa.

Ngày xưa có những người đi hành hương từ những nơi rất xa xôi, đến Giêrusalem, đi hết tháng nầy qua tháng khác vừa đi vừa hành khất kiếm ăn dọc đường. Có một người hành hương nọ lên đường, lương thực đem đi đã hết từ lâu rồi, áo quần lem luốc. Ông ta phải đi qua một trường học, nhằm lúc học sinh tan trường. Thấy ông ăn mặc thô hèn,đám học sinh hú nhau: Ê, có một thằng điên anh em ơi! Chúng đuổi theo đằng sau và lấy đất liêng ông.

Ông nhủ thầm: lạy Chúa, con đói gần chết, đã không thương thì chớ, chúng còn chọc ghẹo con, bảo con là điên khùng. Chuá ở đâu, sao cứ làm thinh hoài vậy! Ông đi một quảng nữa gặp một cánh rừng, bụng đói cồn cào, bước đi hết nổi, ông bèn ngồi dưới một gốc cây và thầm thưa với Chúa: Chắc con chết mất Chúa ơi! Sao Chúa không sai một người nào đến cứu con với. Vừa nói xong thì nghe một tiếng đệt, ông quay lại thấy một trái xoài rụng, ông lượm và nhai ngấu nghiến. Mấy con quạ trên cây lại làm rụng hai trái nữa. Ăn hết ba trái xoài và uống một ngụm nước suối, thấy khỏe hẳn lên, ông lại lên đường. Đi hết cánh rừng, ông gặp một con chó. Con chó nhìn ông một lúc rồi vẩy đuôi cúi đầu đi về phía ông. Ông làm quen, xoa đầu nó và biết có chó tức là có nhà gần đâu đây.

Ông theo con chó và đến một căn nhà, gặp một người đàn ông. Sau vài câu chào hỏi, biết ông là khách hành hương, chủ nhà mời ông vào, vì gia đình nầy là người công giáo. Sau bữa cơm chiều, chủ nhà gọi đứa con út là bé Tom đặt ngồi trên bắp vế ông và nói chuyện với khách. Vừa nói chuyện vừa thọc léc và nhéo tai bé Tom, bé Tom vừa cười vừa la lên chí chóe. Chủ nhà nhìn khách cười và nói: “Khi người ta thương nhau thì người ta tự do muốn cư xử với nhau sao cũng được. Và thường thương ai, người ta lại thích làm khổ người mình yêu thương. Nói xong ông lại thọc léc thằng bé làm nó dẫy dụa và la lên. Va khi nghe người khách kể những gì ông gặp trên đường và nỗi thất vọng của ông ta, chủ nhà bảo: “Anh đừng buồn khi người ta cho anh là khùng là điên. Anh đi tìm Chúa tức là anh yêu Chúa. Vì thế Người được tự do gọi anh là khùng là điên: thằng điên của Ta. Đó là cách Chuá tỏ tình với anh đó, ông bạn ạ.

Chúa cũng đã từng tỏ tình với tôi như vậy đó. Anh bảo Chuá bỏ rơi anh ư? Không đâu, Chúa cho các thiên thần đến cứu giúp anh mà anh không biết đó thôi: các chú quạ, chú chó nhà tôi là những thiên thần đã giúp anh đó. Con Thiên Chuá đã mặc lấy xác phàm thì tại sao thiên thần lại không đội lốt con quạ, con chó hay trái cây được, phải không anh?”-Người khách chong tai nghe và trố mắt nhìn chủ nhà, rồi nói: “Cám ơn anh thật nhiều! Anh đã mở mắt cho tôi thấy sự hiện diện của Chuá trong đời.”-Chính Chuá là Đấng chúng ta phải cám ơn. Tôi chỉ là một nông dân thất học mà thôi.-Sau một đêm ngủ ngon, người bộ hành lại lên đường. Chú chó vẩy cái đuôi như chào ông, ông chào lại: “Xin cám ơn chú cẩu thiên thần của tôi”! [Mục Lục]

11. Ân sủng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tất cả là hồng ân. Hồng ân, ân sủng, đặc ân, đặc sủng, quà tặng, tài năng, ân lộc, ân phúc, phúc lộc, thiên tài, an lạc và hạnh phúc đều là những món qùa được trao ban. Người ta thường nói “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Trải qua bao đời, cha ông của chúng ta đã nghiệm ra rằng con người không thể làm chủ toàn diện đời mình. Trước hết, mỗi người đón nhận hồng ân sự sống để được hiện hữu. Mỗi thụ tạo lãnh nhận một kho tàng mầu nhiệm một cách nhưng không. Người hữu thần tin tưởng vào Thượng Đế, Đấng đã tạo dựng và quan phòng vạn vật muôn loài trong trật tự. Người vô thần cắt đứt nguồn gốc sáng tạo và chỉ chú tâm vào nỗ lực của con người hiện tại. Có người nghĩ rằng với khả năng và nỗ lực tu tâm và tu thân, con người có thể quyết định hoàn toàn số mệnh của mình. Là người trí tuệ, chúng ta nên mở rộng tâm trí để học hỏi và trau dồi kiến thức thêm. Quan sát sự sống muôn loài và vũ trụ vạn vật bao la, điều quan trọng là chúng ta hãy khiêm tốn chấp nhận thân phận yếu đuối, mỏng giòn và rất giới hạn của mình.

Phần Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật 2 Thường Niên giúp chúng ta có một xác tín về ân sủng thiêng liêng. Thiên Chúa sáng tạo, dẫn dắt điều khiển sự vận hành của vũ trụ và sự sống của muôn loài. Con người là tạo vật cao quý mà Thiên Chúa đã tác tạo. Mỗi một con người được tựu thai là một tạo vật hoàn toàn mới và duy nhất. Mọi khả năng tiềm tàng về di truyền đã được in ghi trong từng tế bào của mỗi sự sống. Thượng Đế cho con người có ý chí, lý trí, ước muốn, tự do và khả năng để phát triển tới đỉnh cao. Con người có thể dùng khả năng và nỗ lực quyết tâm tu tâm và tu thân để trở nên con người hữu dụng và trọn hảo. Tiên tri Isaia đã diễn tả: “Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Thiên Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay.” (Is 62,3) Đấng Tạo Hoá trao ban cho mỗi loài có khả năng truyền sinh giống nòi theo cách thế riêng biệt. Sự sinh sôi nảy nở và tăng triển thêm nhiều sẽ làm tăng vẻ huy hoàng của vũ trụ vạn vật. Thiên Chúa đã chúc phúc cho mọi loài được tốt đẹp.

Chúng ta thử suy về nguồn sự sống trong con người cụ thể. Trước khi được hiện hữu, chúng ta chỉ là không. Đã có một khoảnh khắc mỗi người được bắt đầu hiện hữu. Mầu nhiệm sự sống khởi đầu từ sự kết hợp giữa mầm sống từ cha và mẹ. Ôi thật bé nhỏ và nhiệm mầu! Chỉ trong tế bào tí ti đó đã ẩn tàng mọi sự. Sự sống đó không chỉ bắt đầu từ cha và mẹ nhưng nó được nối dài từ thuở tạo dựng. Mầm sống đó được truyền sinh qua vô lượng kiếp. Sự sống phát sinh ra sự sống. Vậy sự sống trong chúng ta đã được truyền sinh qua sự sống của muôn thế hệ cha ông. Cha mẹ cộng tác với Tạo Hoá sáng tạo sự sống nơi mỗi con người một cách đặc thù và riêng biệt. Mỗi cá nhân đều có Deoxyribonucleic acid (DNA) khác nhau và dấu chỉ tay cũng khác biệt. Thật lạ lùng!

Người khôn ngoan và trí tuệ là đừng từ chối điều gì mà mình chưa được học hiểu. Vì càng tìm hiểu và học hỏi, chúng ta càng hiện hữu thêm. Chúng ta biết rằng cả kho tàng kiến thức của loài người góp lại cũng chẳng thấm vào đâu so với sự diễn tiến, hiện hữu và sinh tồn của vũ trụ. Nhiều người có trí khôn hiểu biết còn nông cạn, chưa thấu hiểu được lòng người và cũng chẳng thông suốt thế thái nhân tình, nhưng lại phán quyết nhiều điều vô căn cớ. Có người lại mạnh miệng lên tiếng phủ nhận sự hiện hữu của Đấng tác thành mọi sự. Khi không muốn qui phục, người ta chỉ việc đơn giản chối bỏ uy quyền của Thượng Đế và nói rằng mọi sự hiện hữu là tự nhiên mà có. Họ nghĩ rằng những người hữu thần tin vào thượng đế là thiếu trí tuệ và chưa giác ngộ. Đối với họ, thần thánh chỉ như là bánh vẽ hù doạ những người sơ khai và âu trĩ. Có lẽ chính họ còn đang ngồi trong bóng tối của vô minh.

Qua Kinh Thánh mạc khải và quan sát ngắm nhìn sự vạn vần trong vũ trụ, con người nhận ra nguyên nhân cội rễ của muôn loài. Đó chính là nguyên lý nhân quả. Trông quả thì biết cây. Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế. Người đã dùng mọi hình thức cụ thể để tỏ bày sự quan tâm chăm sóc, khế ước yêu thương ràng buộc và sự trung tín trong giao ước. Là Kitô hữu, chúng ta tin và tôn thờ một Thiên Chúa có ngôi vị và yêu thương. Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh đôi trai tài gái sắc để diễn tả tình yêu sống động của Đấng Tác Tạo: “Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.” (Is 62,5)

Thánh Phaolô phân tích một cách khá rõ ràng về những đặc sủng mà mỗi người được lãnh nhận: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.” (1 Cr 12,4) Quan sát cuộc sống trong bất cứ một nhóm người, một hội, môt tổ chức hay một sinh hoạt chung nào cũng đều có con người có khả năng khác nhau. Mỗi người đều nhận lãnh khả năng để sinh lợi. Thần khí ban cho mỗi người một cách: Người nói tiên tri, kẻ giảng dạy, người được ơn chữa bệnh, kẻ làm phép lạ và người được ơn nói nhiều thứ tiếng… Như trong dụ ngôn về nén bạc, mỗi người đều nhận số vốn khác nhau: Có kẻ nhận 5 nén bạc, người 2 nén và người 1 nén tuỳ theo khả năng. Khả năng, thời gian và tài lực là nguồn vốn của mỗi cá nhân. Điều quan trọng là mỗi người biết dùng tài năng ân sủng của mình để sinh hoa kết trái. Khả năng như hạt giống được trao, chúng ta phải biết gieo vãi, vun trồng và chăm sóc thì khả năng mới phát triển.

Mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư nhưng không thể tách rời. Sống là sống chung, sống cùng và sống với người khác, sự liên đới hỗ tương giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.” (1 Cr 12,7) Không ai nhận ân sủng cho riêng mình nhưng đều vì ích lợi chung. Cuộc sống rất đa dạng. Lịch sử loài người phát triển từng bước liên tục và nối dài. Tất cả thành quả của chất xám tri thức đã đặt nền tảng phát minh trong mọi thời. Nhờ trí khôn, con người đã tìm ra được một số những nguyên nhân ẩn tàng trong thiên nhiên. Mỗi sự phát minh mới đều đặt nền tảng trên các định luật đã có trước. Sứ mệnh của con người là phục vụ lẫn nhau trong khả năng của mình. Con người có muôn trùng khả năng chuyên môn và công việc khác nhau để phục vụ công ích. Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng tin vào một Thiên Chúa: “Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.” (1 Cr 12,5)

Chúa Giêsu đầy quyền năng trong ý tưởng, lời nói và việc làm. Chúa đã hiện hữu từ đời đời có uy quyền sáng tạo và biến đổi cả tinh thần lẫn vật chất. Tại tiệc cưới Cana, qua lời khẩn nài của Mẹ Maria, Chúa Giêsu là làm phép lạ đầu tiên biến nước thành rượu. Thánh Gioan đã viết: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana, miền Galilê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.” (Ga 2,11) Với sự cộng tác của con người, Chúa đã tỏ quyền năng và vinh quang của Ngài. Ngài không khoe khoang hô lớn nhưng chỉ hành động âm thầm qua những việc rất bình thường của gia nhân: Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng (Ga 2,7). Chỉ có các gia nhân biết sự việc đã xảy ra cũng giống như các mục đồng nhận diện ra Chúa nơi máng cỏ Belem.

Chúng ta hãy đến cùng Đức Maria, Mẹ là Đấng cầu bầu có thần thế trước tôn nhan Thiên Chúa. Mẹ sẽ dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nghe lời của Thân Mẫu Chúa nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2,5). Lạy Chúa, Chúa đã biến nước thành rượu ngon, xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con nên khí cụ bình an của Chúa. [Mục Lục]

12. Hôn nhân không có hôn thú – Lm. Nguyễn Hữu Thy

Ðức Giêsu và các bạn hữu của Người đi tham dự một “Ðám cưới nhà quê” ở Cana. Người ta ăn uống vui chơi suốt cả tuần lễ. Mọi người trong xóm đều có mặt. Và qua bài tường trình của Tin Mừng, người ta cũng biết được là khách khứa đã uống khá nhiều rượu! Vì đây là dịp tốt hiếm hoi của một thôn xóm nghèo nàn hẻo lánh: Hai người bạn trẻ nam-nữ đã quyết định thành lập gia đình riêng, đã muốn cùng nhau tự định đoạt lấy cuộc sống của mình, và một cách công khai trước sự chứng giám của mọi người, nhất là với sự chúc lành của Thiên Chúa. Vì thế cần phải ăn mừng, cần phải ca hát nhảy múa!

Nhưng tình hình ngày nay trên khắp thế giới nói chung và tại Âu Châu, nơi chúng ta đang ở, nói riêng như thế nào?

Lễ Cưới theo truyền thống như từ trước tới nay, đã từ từ trở thành một biến cố “hiếm hoi”. Nhiều thanh niên thiếu nữ ngày nay không muốn chấp nhận đời sống hôn nhân truyền thống bình thường, nghĩa là một đời sống vợ chồng có cưới hỏi đạo-đời đàng hoàng. Họ cho một cuộc sống vợ chồng như thế là “đeo gông vào cổ”, là mất hết tự do cá nhân và ngăn cản sự phát triển bản thân. Trái lại họ chủ trương hai người nam nữ khi yêu nhau, thì sống chung với nhau, chứ không cần cưới hỏi, không cần hôn thú. Ít nhất là phải “thử” trước xem có hợp nhau không đã! Những lý do chính họ đưa ra là:

Người thì bảo: Cưới hỏi để làm gì? Sự quan hệ sống chung của chúng tôi là chuyện hoàn toàn riêng tư của hai chúng tôi, đâu cần chi phải cưới hỏi đạo-đời làm gì! Nếu người ta suy nghĩ một chút, người ta sẽ thấy ngay là ngày nay tất cả mọi lãnh vực trong cuộc sống của chúng ta đều đã được qui định và trở nên khó khăn rắc rối như thế nào, thì người ta sẽ thông cảm được một thái độ như thế. Ít là ở đây, trong lãnh vực hoàn toàn có tính cách riêng tư này, chúng tôi không muốn những người ngoại cuộc “xía vô”.

Tuy nhiên, ở đây người ta cũng phải hỏi ngược lại: Phải chăng phía sau một thái độ như thế lại không ẩn chứa một chủ nghĩa cá nhân quá khích hay sao? Bởi vì, chúng ta không sống lẻ loi trên một hoang đảo như nhân vật tiểu thuyết Robinson, hay trên một hoang đảo chỉ có hai người, nhưng chúng ta sống giữa một chuỗi của các tương quan đa phức: Gia đình, anh em họ hàng, bà con láng giềng, bạn hữu, đồng nghiệp, v.v… Cuộc sống chúng ta nhất thiết phải cần đến những quan hệ đó! Vâng, tình yêu là một điều hoàn toàn riêng tư cá nhân, nhưng chỉ tạm thời! Nếu một khi có điều gì đó không may xảy ra, thì bấy giờ người ta lại phải chạy đến nhờ cậy sự can thiệp và giúp đỡ của những kẻ khác, sự can thiệp và giúp đỡ của xã hội, của chính xã hội mà trước đó đã không được vị nể.

Ðàng khác, những sự kiện vui mừng và quan trọng trong cuộc sống như lễ cưới, ngày khởi đầu cuộc sống chung gia đình giữa hai người nam nữ, người ta cần phải ăn mừng và công khai hóa trước sự chứng giám của xã hội chứ! Thế nhưng có những đôi nam nữ đến tuổi cập kê đã lẳng lặng, đã “không trống không kèn” bỏ nhà cha mẹ cuốn gói đến ở chung với nhau. Nếu người ta đã có đủ lý do để cùng với bạn bè và người thân quen ăn mừng ngày đậu bằng lái xe hay đậu tú tài, ngày sinh nhật thứ mười tám hay ngày thi đậu tốt nghiệp, v.v…thì tại sao người ta lại không muốn cùng với gia đình, bạn bè và mọi người thân quen ăn mừng một biến cố, một gian đoạn vô cùng quan trọng trong cuộc sống, như ngày khởi đầu con đường đời chung giữa hai người nam nữ: Ngày cưới?

Còn những người khác lại nói: Tại sao lại cưới hỏi? Chẳng ích lợi gì! Bởi vì luật pháp ràng buộc trong hôn nhân chỉ là lý do cho người ta ỷ lại hay là phương tiện cho người ta dễ dàng lợi dụng để sống dửng dưng và coi thường nhau. Còn những ai sống chung với nhau mà không cưới hỏi thì luôn luôn phải lo lắng quan tâm đến nhau – vì biết quan hệ của họ không có ràng buộc -, chứ không thể có thái độ hửng hờ hay lạnh nhạt với nhau được. Cả hai phải luôn săn đón và chiều chuộng nhau, phải luôn cố gắng sống sao để có thể lôi cuốn và giữ được nhau. Như thế, sự quan hệ giữa hai người luôn sống động!

Chắc chắn rằng trong quan niệm trên cũng có những nhận xét rất thực tế và đúng đắn. Chúng ta đã biết câu chuyện rất thời danh về “Chiếc va-ly”. Người ta kể rằng: “Có một đôi vợ chồng trẻ, ngay sau ngày cưới, đã lấy tàu lửa đi du lịch đến một tỉnh khác trong nước để hưởng tuần trăng mật. Khi đến nơi đã định đến, cả hai xuống tàu và còn tỏ ra ngượng nghịu, chứ chưa được tự nhiên. Bấy giờ cô vợ ghé tai chồng nói nhỏ: ‘Kìa, người ta ai nấy cứ nhìn chúng mình chằm chặp, làm em ngượng quá. Chúng mình hãy làm ra vẻ là chúng mình đã cưới nhau lâu rồi, đi anh!’ Bấy giờ anh chồng nói với cô vợ: ‘Vậy thì em hãy tự xách lấy va-ly!’“

Vâng, phải chăng mối đe dọa nguy hiểm to lớn nhất đối với mỗi đời sống hôn nhân lại không phải là sự thiếu quan tâm lo lắng lẫn cho nhau sao? Ðó chính là điều các tầng lớp người trẻ nhìn thấy rất rõ. Cụ thể trước mắt họ chính là đời sống hôn nhân của cha mẹ họ, mà họ thường hay gay gắt phê bình chê trách. Sự nguy hiểm của thói quen, của nhàm chán, của sự giận hờn thái quá đến tránh mặt nhau trong đời sống vợ chống, là rất lớn.

Tuy nhiên, cũng có sự nguy hiểm ngược lại, là: Khi đời sống hôn nhân thiếu đi sự bảo đảm chắc chắn, khi ở chỗ nào đó trong đời sống hôn nhân còn dùng dằng và thiếu rõ ràng dứt khoát, thì bấy giờ một người trong họ lại không có thể dễ dàng bắt chẹt người còn lại bằng những đe dọa cụ thể hay bóng gió, đến nỗi khiến cho người này phải bỏ cuộc – và đây cũng chính là điều chúng ta thường chứng kiến trong cuộc sống thực tế?

Phải chăng đời sống hôn nhân không thể có được sự bảo đảm chắc chắn trước sự hay thay đổi bất thường của tình cảm con người, đến nỗi người vợ hay người chồng – cả trong trường hợp cần thiết và quan trọng – cũng không dám đưa ra những lời phê bình thẳng và thành thật có tính cách xây dựng sao? Phải chăng cả lời thề hôn nhân với sự ràng buộc chặt chẽ của nó mà hai người đã công khai hứa với nhau trong ngày cưới trước sự chứng dám của xã hội, lại không thể giúp cho hai người đứng vững được trong những giai đoạn thử thách và cùng nhau vượt qua được những khó khăn vất vả trong cuộc sống vợ chồng, thay vì vội vàng bỏ cuộc sao? Phải chăng việc loại bỏ sự bảo đảm của định chế pháp luật cho đời sống hôn nhân, lại không phải là một sự phiêu lưu liều lĩnh? Chớ thì trong thực tế, sự bảo đảm đó của pháp luật lại thường đã không mang lại hạnh phúc cho hôn nhân hơn là đổ vỡ sao?

Ðàng khác, ngày nay người ta cũng thường nghe những quan điểm khác nữa, ví dụ: Về đời sống hôn nhân, người ta cần phải sống thử trước đã, để xem liệu hai người có hợp với nhau hay không. Còn nếu hai người nam nữ chỉ chờ vào những ngày cuối tuần hay chỉ thỉnh thoảng mới gặp nhau, thì rất khó lòng biết được con người thật của nhau. Vâng, người ta cần thí nghiệm xem liệu người ta có thể chấp nhận được những va chạm đụng độ cụ thể của cuộc sống hằng ngày hay không, liệu người ta có thể cùng nhau tay trong tay vượt lên trên được những khó khăn thử thách, v.v…! Dĩ nhiên, người ta phải công nhận rằng, quan điểm đó đã nêu lên được những vấn nạn thực tế quan trong.

Tuy nhiên ở đây, người ta cũng phải hỏi ngược lại: Phải chăng những quan niệm tương phản trong vấn đề hôn nhân đã không nêu lên hai tình huống hoàn toàn khác nhau: Một đàng, hai người nam nữ lén lút sống chung “thử” với nhau, chứ không có cưới hỏi phép tắc gì cả; còn đàng khác, hai người nam nữ sống chung với nhau bằng lời thề hứa hôn nhân có tính cách ràng buộc, mà họ cùng công khai tuyên bố trước sự chứng giám của xã hội là họ sẽ trọn đời chung thủy bên nhau dù cho cuộc sống có xoay vần thế nào đi nữa; nhưng nhất là với sự chúc phúc và chuẩn y của Thiên Chúa qua trung gian của Giáo Hội?

Ðứng trước những khó khăn thử thách đầy gian lao chắc chắn sẽ xảy ra trong cuộc sống chung, thì hai kiểu sống chung khác nhau đó đương nhiên sẽ có những thái độ xử sự hoàn toàn khác nhau. Thật vậy, xét về phương diện tâm lý: Phải chăng hoàn cảnh của cặp nam nữ sống chung “thử” với nhau, thì chỉ có thể kêu mời sự ý thức tự nguyện của các đương sự, chứ không thể bó buộc họ phải nỗ lực thích ứng và phải cư xử tốt, đúng với sự thể? Những cặp nam nữ đó sẽ xử sự ra sao khi họ không thể cầm cự được với sự thử thách như thế? Dĩ nhiên hậu quả cũng sẽ xảy ra tương tự như ly dị, chia tay, v.v…, với tất cả những hâu quả nghiêm trọng của nó, như: Ðau khổ, thất vọng, chua xót, chán chường, nhất là thiếu trách nhiệm đối với nhau và không được pháp luật bênh vực; đó là chưa nói đến yếu tố quan trọng khác: con cái!

Thật ra, khi phải đối mặt với những đời sống hôn nhân bất hạnh và bị đổ vỡ, người ta rất dễ thông cảm được thái độ sợ hãi của một số không nhỏ những bạn trẻ, đã không muốn ràng buộc mình suốt đời vào cuộc sống hôn nhân. Những câu hỏi họ thường đặt ra là: Phải chăng lời hứa trọn đời chung thủy lại không có nghĩa là một sự đòi hỏi quá sức? Ai có thể quả quyết được là rồi đây – trong mười, mười lăm hay hai mươi năm về sau – người bạn đời của tôi, và cả chính tôi nữa, sẽ phát triển ra sao đây? Và liệu cả hai chúng tôi còn có thể hợp với nhau nữa không? Liệu chúng tôi còn có thể sống hạnh phúc với nhau nữa không?

Như đã nói trên, ngày nay nhiều thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành đã tự tiện sống chung với nhau mà không cưới hỏi, không có hôn thú. Ngay cả những gia đình đạo đức sốt sắng cũng không tránh khỏi những thách đố đó. Họ đau khổ nhiều và không biết phải xử sự ra sao nữa! Hy vọng những suy tư sau đây có thể giúp cho họ có thêm ý tưởng chăng:

Nhiều bạn thanh niên thiếu nữ hoàn toàn chắc chắn và chân thành xác tín rằng, họ hành động như thế là đúng. Và dù chính tôi có nhận xét ngược lại, tôi cũng phải công nhận và kính trọng sự chân thành chủ quan trong sự quyết định của họ. Phải chăng các người bạn trẻ ngày nay đã không còn sự nhận thức và cảm giác là mình đã làm một điều gì đó sai? Tôi không tin thế!

Vì thế lời góp ý của tôi là: Thưa các bậc cha mẹ, xin quí vị hãy luôn bình tĩnh, nhẫn nại, quảng đại và tiếp tục giữ quan hệ tốt với con cái mình trong mọi trường hợp, nhất là luôn luôn phải thành tâm thương yêu con cái. Ðó là sự giúp đỡ tốt nhất mà quí vị có thể dành cho con cái, hầu có thể tạo điều kiện thuận lợi cho chúng biết nhìn ra được đâu là phải hay trái, tốt hay xấu, đúng hay sai, trong hành động và trong quyết định của chúng. Ðừng bao giờ có thái độ quá khích đối với con cái, để không xô đẩy chúng vào những hành động quá khích và những quyết chủ quan sai lạc! Sớm hay muộn, con cái cũng sẽ hiểu ra được quan điểm đúng đắn của cha mẹ mình; dĩ nhiên thái độ của cha mẹ phải luôn minh bạch và dứt khoát.

Nói chung, đối với các thanh niên thiếu nữ, nếu người ta luôn luôn chỉ biết chiều chuộng một cách thái quá, cốt sao để lấy lòng chúng, hay ngược lại, chỉ lạnh lùng từ chối hay phê bình phủ nhận một chiều, thì thường không thể mang lại được hiệu quả tích cực. Trái lại, cả hai thái độ đó chỉ gây thêm sự xa lạ và thất bại chua cay!

Vậy câu hỏi vẫn được đặt ra là: Cha mẹ cần phải xử sự ra sao khi con cái họ nhất định không chấp nhận đời sống hôn nhân cổ truyền, bất chấp cả xã hội lẫn Giáo Hội, và chung sống với nhau theo phong trào tự do “hôn nhân không có hôn thú”?

Sự góp ý sau đây của tôi mang dạng thức những câu hỏi, để các bậc cha mẹ suy tư và tìm ra câu trả lời: Ðiều gì thực sự tốt đối với hai người thanh niên thiếu nữ trong hoàn cảnh cụ thể hiện tại của họ? Ðâu là cách tốt nhất để tôi có thể giúp đỡ cho sự quan hệ của họ được thành công? Hy vọng rằng, những câu hỏi đó cũng là những câu hỏi mà các bậc cha mẹ đang trong hoàn cảnh tương tự cần đặt ra cho mình. Tôi xin nhắc lại là: Với tình thương yêu chân thành, lòng nhân hậu bao dung và sự thông cảm hiểu biết lành mạnh, v.v… người ta có thể nâng đỡ họ một cách tốt nhất!

Tiếp đến tôi cũng thành thật góp ý với các bạn trẻ thế này: Các bạn hãy cư xử với ý thức trách nhiệm trong những quan hệ của mình. Ai thật lòng yêu một người, thì cũng phải có trách nhiệm đối với người đó. Không ai có quyền lợi dụng tình cảm và sự tin tưởng của kẻ khác.

Ở đây, tôi xin kể các bạn nghe một câu chuyện mà chính tôi đã chứng kiến cách đây khá lâu, một câu chuyện mà theo tôi là không được phép xảy bất cứ nơi đâu nữa. Ðó là trường hợp hai bạn nam-nữ trẻ mà tôi cứ đinh ninh là mọi sự sẽ tốt đẹp xuôi chảy, vì họ hội đủ hầu như tất cả những điều kiện thuận lợi cho một cuộc sống chung hạnh phúc. Vâng, họ đã đầu tư rất nhiều vào sự quan hệ của họ. Cả hai đã trải qua mọi thăng trầm của cuộc sống. Và nay con đường đời chung cho cả hai như đã được mở rộng trước mắt họ. Thế nhưng, bổng nhiên qua một quan hệ tình cờ và ngắn ngủi với một người đàn ông khác, và kết quả là người bạn gái mang thai. Bấy giờ tình huống đã trở nên hoàn toàn phức tạp và vô cùng khó xử: Một đàng, người đàn bà và đứa con; đàng khác, người đàn ông mà nàng vẫn luôn luôn yêu thương hết lòng; một đàng khác nữa, người đàn ông đã cho nàng đứa con và cũng không muốn bỏ nàng! Một cuộc sống bị giằng co níu kéo giữ bốn người như thế, thật vô cùng nặng nề và vô cùng rắc rối khó xử!

Qua đó, chúng ta thấy được một điều quá hiển nhiên, là: Trên một sân chơi mà người ta không tôn trọng luật chơi, thì sẽ bị loại ra khỏi sân, chứ không thể tiếp tục cuộc chơi được nữa! Sống trong một xã hội mà người ta không tôn trọng luật lệ của xã hội, thì sẽ bị xã hội đào thải và sẽ rơi vào cảnh đời bất hạnh, “tiến thoái lưỡng nan”. Hơn nữa, chính lý trí và luân lý là hai yếu tố phân biệt con người với các thụ tạo khác. Và sau cùng, để một sự quan hệ được thành công, cần phải có sự ý thức trách nhiệm, lòng trung thành, sự thông cảm và sự tha thứ, nhất là đức tin vào Thiên Chúa. Amen. [Mục Lục]

13. Chúa Nhật 2 Thường Niên

Ai trong chúng ta cũng từng dự lễ cưới, chúng ta thường nghe người ta chúc cô dâu chú rể “trăm năm hạnh phúc”. Người ta mong được “trăm năm” đồng nghĩa hạnh phúc mãi mãi. Trong thực tế, gia đình có được hạnh phúc đã là khó, hạnh phúc trăm năm lại càng khó hơn. Hơn thế nữa, đời sống của mỗi người chúng ta như một tiệc cưới. Có phải trong cuộc sống ai trong chúng ta cũng luôn có được niềm vui, có được hạnh phúc như trong một tiệc cưới không?

Tiệc cưới ở Cana phút chốc đã lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang vui, mọi người đang mời nhau ly rượu mừng nhưng bỗng “hết rượu”. Còn gì buồn cho bằng. Hết rượu là điều mà chủ nhà không ngờ và cũng không muốn nhưng ông đang phải đối mặt. Việc thiếu rượu trong tiệc cưới ở Cana có thể đó là những thiếu thốn trong gia đình chúng ta. Thực tế mà nói, mỗi gia đình thường thiếu một cái gì đó vào một lúc nào đó trong đời sống hôn nhân gia đình: thiếu kiên nhẫn, thiếu hiểu nhau, thiếu thông cảm…thiếu ngay cả tình yêu, như giữa bữa tiệc thiếu rượu vậy. Có thể những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm, không đủ tiền cho con đi học, thiếu thuốc men khi bệnh tật. Quan trọng hơn là những thiếu thốn về tinh thần: vợ chồng thiếu sự quan tâm, chăm sóc cho nhau; cha mẹ thiếu những lời dạy dỗ khuyên bảo con cái; con cái thiếu kính trọng, vâng lời cha mẹ; anh chị em không nhường nhịn tôn trọng lẫn nhau. Nhưng cái thiếu thốn trầm trọng nhất là thiếu lòng đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu sự công bằng bác ái, thiếu tinh thần sống đạo.

Những thiếu thốn trên dễ dàng đưa đến những bất hoà với nhau, xích mích, giận hờn, ghen ghét, gia đình ngột ngạt. Gia đình giờ đây không còn ạnh phúc nữa, hay đúng hơn tổ ấm giờ đây trở thành chốn “ngục tù” của nhau. Vì thế, làm sao có được hạnh phúc gia đình khi người chồng, người cha sáng say chiều xỉn, còn người vợ, người mẹ trở nên cau có, hay quát mắng, những đứa con không còn ngoan ngoãn nữa.

Vì thế, có phải khi lâm vào những bế tắc như trên, chúng ta không còn cách để tìm lại hạnh phúc gia đình? Phúc âm cho chúng ta lời giải đáp. Trong tiệc cưới Cana có sự hiện diện của Chúa Giêsu. Sự hiện diện của Ngài nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa dành chúng ta. Thiên Chúa như một người cha, người bạn thân thiết của chúng ta. Ngài gần gũi, thân tình, đồng hành và chia sẻ buồn vui với con người. Nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu, gia đình Cana mới thoát khỏi một bất hạnh nước đã hoá rượu ngon.

Mỗi người chúng ta cũng sẽ vượt qua những thiếu thốn những khó khăn trong gia đình, trong cuộc sống của mình khi chúng ta dám để Chúa đến với gia đình, với cuộc sống của mình. Sự hiện diện của Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua những trở ngại, những khó khăn trắc trở trong cuộc sống. Chúng ta hết tiền, không có việc làm, thiếu sức khỏe…hãy mời Chúa Giêsu đến, như đôi tân hôn ở Cana, chúng ta sẽ được giúp đỡ những gì chúng ta cần để chúng ta hạnh phúc. Kế đến, chúng ta phải lắng nghe và thực hành ý Chúa “Người bảo gì các anh phải làm theo”. Muốn giữ vững hạnh phúc gia đình mỗi người trong chúng ta hãy làm theo Lời Chúa dạy. Hãy mở lòng ra để Lời Chúa hướng dẫn. Đồng thời, trong mọi công việc chúng ta làm hãy để Chúa giúp chúng ta. Thực hành Lời Chúa, gia đình chúng ta sẽ vượt qua những thiếu thốn, những khó khăn. Hơn nữa, chúng ta cũng đừng quên vai trò của Đức Maria trong phép lạ hôm nay. Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ đã được thực hiện để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở. Ngày nay Đức Mẹ vẫn còn nói với Chúa Giêsu giúp chúng ta: “họ hết rượu rồi”.

Giáo dân Châu Âu xưa kia có một câu tục ngữ như thế này: “Nếu bạn đi du lịch bằng đường bộ, bạn hãy đọc một kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi du lịch bằng đường biển, bạn hãy đọc hai kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi cưới vợ, lấy chồng, bạn hãy đọc một trăm kinh Kính Mừng”. Phải, đời sống chúng ta không phải chỉ là một chuyến du lịch mà là cả một cuộc hành trình đến mãn đời. Không có sự hiện của Chúa, không có Đức Mẹ, chúng ta khó vượt qua khó khăn, trắc trở và sống vui tươi được và nhất là sống yêu thương tha nhân được.

Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương nhân loại, để nhân loại sống hợp nhất và yêu thương. Tình thương yêu là cái gì tự nhiên nhất của con người. Giận ghét, oán thù, chia rẽ, phân ly là tình trạng bất bình thường. Mỗi người phải tìm cách giàn xếp để yêu thương nhau, hiệp nhất với nhau. Nếu chúng ta không mời Chúa Giêsu đến trong gia đình chúng ta, gia đình sẽ có nguy cơ cạn dần thứ rượu nồng của tình yêu. Chúa Giêsu phải luôn có mặt trong gia đình và mọi người trong gia đình phải biết sống với Ngài, yêu mến Ngài, kính trọng Ngài như một Thượng Khách, thì tình yêu thương giữa mọi người sẽ như thứ rượu mới luôn luôn đầy tràn và đời sống gia đình sẽ là nguồn vui và hạnh phúc. Chúa biến nước lã thành rượu ngon thì Chúa cũng mời gọi chúng ta biến đổi cuộc đời nhạt nhẽo này thành rượu nồng tình yêu, yêu chúa và yêu người bằng cách sống yêu thương để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến thăm và chúc phúc cho gia đình chúng con để chúng con tràn đầy sự hiện diện của Chúa. Và trên hết, xin Chúa hãy chúc lành cho mỗi người trong gia đình chúng con, để tâm trí chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa, đôi tay luôn biết rộng mở yêu thương cho tha nhân, và trái tim luôn luôn biết hướng về Chúa. Amen. [Mục Lục]

14. Họ hết rượu rồi – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Chúa mến chuộng dân Người. Không những Người sinh xuống thế làm người để ở với chúng ta, Người còn chia sẻ với chúng ta trong mọi niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống hằng ngày. Đó là niềm an ủi và hi vọng của chúng ta. Như hôm nay, Người và Mẹ Người cùng đến dự tiệc cưới.

Tiệc cưới Cana hết rượu phải đối mặt với thất bại và bất hạnh. Nhìn vào tình hình thế giới đầu năm nay ta thấy không khác gì một đám cưới hết rượu. Ta cũng đang đối mặt với thất bại và bất hạnh. Không dám nói với Chúa vì tình hình tồi tệ này là hậu quả của việc ta đã không vâng nghe Lời Chúa, không thực hành Lời Chúa. Ta chỉ còn biết nhờ Đức Mẹ đệ đạt lên Chúa tình trạng thiếu thốn của ta, giống như Người đã đệ đạt nỗi thiếu thốn của đám cưới Cana.

Thưa Mẹ, chúng con đã hết rượu. Thế giới hôm nay đã hết rượu tự do dân chủ. Chúng con chỉ còn thứ nước lã nhạt phèo những lời hứa hẹn suông. Thế giới hôm nay đã cạn hết rượu tài nguyên phong phú. Trái đất chỉ còn là thứ nước lã khô cằn. Rừng cây bị đốn ngả nghiêng. Khoáng sản bị khai thác đến tận cùng. Cả đến bầu khí quyển cũng bị thương tổn nặng nề. Thế giới đã hết rượu hoà bình. Chiến tranh nối tiếp chiến tranh. Chiến tranh nóng dẫn đến chiến tranh lạnh, mở sang chiến tranh khủng bố và miên man với chiến tranh kinh tế. Thương trường trở thành chiến trường khốc liệt. Thiên hạ đã quá chén uống cạn nguồn tài chính nên thế giới hôm nay phải đối mặt với đói nghèo.

Đất nước chúng con đang thiếu rượu. Những người cầm quyền đã uống quá chén quyền lực nên tự do dân chủ chỉ còn là nước lã hứa hẹn nhạt thếch. Những nhóm lợi ích quá chén tham lam nên đa phần dân chúng phải uống thứ nước lã nghèo khổ, túng thiếu. Xã hội chẳng còn một giọt rượu đạo đức, chỉ còn thứ nước lã giả dối, cá nhân, ích kỷ và hưởng thụ.

Cả đời sống tu trì của chúng con cũng đang thiếu rượu trầm trọng. Chúng con không tích trữ đủ rượu lý tưởng nên vào đời tu, thay vì tìm Chúa, chúng con lại biến Chúa thành phương tiện để tìm những thứ khác. Chúng con thiếu rượu yêu mến nên cuộc sống tu trì trở nên bế tắc, giờ kinh giờ lễ trở nên gánh nặng thay vì niềm vui. Thiếu thứ rượu quên mình vì Chúa nên chúng con quên Chúa vì mình. Đã cạn rượu tu đức nên thay vì vào tu viện để tìm quên mình nhưng không biết từ lúc nào chúng con chỉ biết đòi hỏi. Rượu bác ái huynh đệ chưa đủ dùng mà chúng con lại quá chén nên thay vì xây dựng chúng con lại tàn phá cộng đoàn, thay vì nâng đỡ anh em, chúng con lại xét nét bắt bẻ nhau, thay vì quan tâm để giúp nhau thăng tiến, chúng con lại lườm nguýt chành choẹ nhau. Đi tu để thuộc trọn vẹn về Chúa, nhưng hình như chúng con đang thuộc về thế gian. Đi tu để chiến đấu với Ác thần nhưng hình như chúng con đang tùng phục nó. Chúng con đã hết rượu xin Mẹ cầu khẩn Chúa cho chúng con.

Chắc chắn Đức Mẹ sẽ nói với Chúa. Nhưng Đức Mẹ vẫn quay lại dặn dò chúng ta: “Người bảo gì, các con cứ việc làm theo”. Sau cùng, Đức Mẹ đưa ta trở lại cốt lõi của vấn đề, đó là trở về với Chúa, phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa ta mới giải quyết được bế tắc của thế giới, của xã hội, của cộng đoàn và của chính bản thân ta.

Hãy xem Chúa bảo ta làm gì. Thật lạ lùng, Chúa bảo các gia nhân múc nước đổ đầy các chum đựng nước rửa chân tay. Sao thế nhỉ?

Múc nước là công việc tầm thường nhất. Qua đó, Chúa muốn bảo chúng ta đừng lo toan những chuyện đội đá vá trời, hãy làm những việc tầm thường nhất, những việc ai cũng chê bỏ, những việc bổn phận hằng ngày. Rượu là bữa tiệc lớn. Nước lã là công việc tầm thường hằng ngày đến chán ngấy. Thế nhưng Chúa bảo chúng ta muốn có rượu ngon ngày lễ trọng, hãy làm những công việc tầm thường, nhàm chán hằng ngày, những việc âm thầm chẳng ai biết đến.

Múc nước là công việc vô ích nhất. Vì tiệc đã gần tàn, người ta đã rửa chân rửa tay từ khi mới vào. Chúa muốn ta làm những việc xem ra vô ích vì Chúa chỉ muốn một điều là ta vâng lời. Vâng lời trọng hơn của lễ. Ý Chúa mới là quan trọng. Công việc chỉ là ta thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Chính thánh ý đem lại niềm vui và hạnh phúc.

Múc nước là việc phục vụ khiêm nhường nhất. Dùng để rửa chân tay cho khách. Chúa muốn chúng ta biết quan tâm đến người khác trong những điều nhỏ nhặt nhất. Trong bài Sách Thánh, Thánh Gioan buộc ta phải cầu nguyện cho người anh em lầm lỗi: “Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin, và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy”. Như thế, chúng ta không chỉ xin rượu cho bản thân mà còn phải xin rượu cho nhau nữa. Và Thánh Gioan khích lệ ta cầu xin, hãy “mạnh dạn cầu xin vì Chúa sẽ nhậm lời khi ta xin điều hợp ý Chúa”.

Múc nước là việc làm không thể thiếu trong bữa tiệc. Nước rửa chẳng có giá trị gì nhưng lại không thể thiếu. Những việc tầm thường ta làm không đáng kể, nhưng góp phần xây dựng cộng đoàn và xây dựng chính bản thân mình khi ta làm vì Chúa, vì anh em. Khi ta làm mọi việc tầm thường theo ý Chúa, Chúa sẽ làm cho những tầm thường, nhạt nhẽo trở thành thứ rượu ngon cho thế giới, cho cộng đoàn và cho bản thân ta.

Lạy Chúa, xin ban cho thế giới rượu mới bình an và thịnh vượng. Xin ban cho quê hương Việt Nam rượu ngon tự do, dân chủ và hạnh phúc. Xin ban cho Giáo hội Việt Nam rượu đức tin, hiệp nhất và phát triển. Xin ban cho Đan viện chúng con rượu mới thinh lặng cầu nguyện và huynh đệ bác ái. Xin ban cho mỗi người chúng con rượu mới sốt sắng, yêu mến và chỉ tìm một mình Chúa là hạnh phúc đích thực của chúng con. Amen. [Mục Lục]

15. Cuộc sống luôn cần sự quan tâm

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Sau khi chịu phép rửa của Thánh Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai. Ngài rao giảng Tin mừng. Đi liền với lời rao giảng là các phép lạ. Bài Tin mừng hôm nay tường thuật phép lạ Ngài biến nước thành rượu ngon theo lời thỉnh cầu của Đức Mẹ. Đây là phép lạ đầu tiên của Ngài. Qua phép lạ này, chúng ta thấy được những bài học về sự quan tâm: Sự quan tâm của Đức Mẹ; sự quan tâm của Chúa Giêsu và sự quan tâm của các gia nhân.

  1. Sự quan tâm của Đức Mẹ

Đi dự đám cưới để chúc mừng hạnh phúc của đôi tân hôn là chuyện bình thường trong cuộc sống. Đặc biệt khi con người có những mối liên hệ: Ruột thịt, họ hàng, bạn bè, làng xóm láng giềng với nhau. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu và Mẹ Maria đi dự tiệc cưới. Chắc chắn gia đình chủ tiệc có liên hệ gì đó với Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Thông thường, những người được mời đến dự tiệc sẽ được sắp xếp ngồi vào chỗ đã chuận bị trước và được gia chủ tiếp đón một cách chu đáo. Đức Mẹ và Chúa Giêsu là khách mời, và có lẽ là khách mời danh dự nên sẽ được sắp xếp vào chỗ ngồi đặc biệt. Nhưng tại sao Đức Mẹ lại biết chủ tiệc hết rượu? Vì Mẹ quan tâm đến gia chủ. Mẹ quan sát và thấy gia chủ bối rối. Mẹ tìm hiểu và thấy họ hết rượu. Đúng như người ta nói: Bác ái là tìm tòi. Tìm sự thiếu thốn của người khác để quan tâm, để giúp đỡ. Giúp đỡ như thế nào đây? Đức Mẹ đã nghĩ đến Chúa Giêsu. Vì Mẹ tin tưởng chỉ có Con của Mẹ mới có thể giải quyết được chuyện này. Thế là Mẹ đã mạnh dạn đặt vấn đề với Chúa Giêsu, Con của Mẹ: “Họ hết rượu rồi”(x. Ga 2,3). Vai trò của Mẹ là như thế: Cầu bầu. Việc còn lại là của Chúa Giêsu. Mặc dầu, câu trả lời của Chúa Giêsu có vẻ lạnh nhạt: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”(x. Ga 2,4). Nhưng Mẹ vẫn tin tưởng Chúa Giêsu sẽ làm gì đó để giúp đỡ chủ tiệc. Bằng chứng là Mẹ đã bảo những người giúp việc “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”(x. Ga 2,5).

Mẹ Maria có mặt ở tiệc cưới Cana là do lời mời của gia chủ, và cũng là do sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ngày hôm nay, nhiều gia đình đang thiếu thốn cách này cách khác: Thiếu thốn sự quan tâm, thiếu thốn tình yêu, thiếu thốn miếng cơm manh áo, bị bệnh tật…Hãy mời Mẹ về với gia đình, hãy dâng những nỗi khổ, những sự thiếu thốn của gia đình chúng ta cho Mẹ. Mẹ sẽ sẵn sàng cầu bầu cùng Chúa giúp đỡ gia đình chúng ta như xưa Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa giúp đỡ gia đình tiệc cưới tại Cana.

  1. Sự quan tâm của Đức Giêsu

Trong suốt 3 năm rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu hằng luôn quan tâm đến mọi hạng người để giúp đỡ, để biến đổi, để chữa lành. Riêng trong đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Ngài quan tâm đến lời yêu cầu của Đức Mẹ. Khi Mẹ Maria đề nghị Ngài cứu giúp gia tiệc, Chúa Giêsu trả lời cho Mẹ biết “Giờ Ngài chưa đến”(x. Ga 2,4). Mặc dầu giờ chưa đến nhưng do lời thỉnh cầu của Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon. Điều đó chứng tỏ Ngài quan tâm đến Mẹ. Sự quan tâm đó còn được thể hiện qua việc Ngài lối Đức Mẹ cho Thánh Gioan và lối Thánh Gioan cho Đức Mẹ. Từ đó, Mẹ trở thành mẹ của mỗi người chúng ta. Mẹ hằng yêu thương giúp đỡ chúng ta khi còn sống cũng như khi đã về trời. Vì vậy, Giáo hội thường gán cho Mẹ các tước hiệu như: Đấng bênh vực, Mẹ Phù hộ, Mẹ cứu giúp, Đấng làm trung gian (x. LG 62).

Chúa Giêsu không những quan tâm đến Đức Mẹ mà Ngài còn quan tâm đến chủ tiệc và đôi tân hôn, tức là quan tâm đến đời sống gia đình. Đám cưới là niềm vui lớn nhất trong đời của đôi tân hôn. Chính vì vậy, cả đôi tân hôn và cả gia đình chủ tiệc đều mong muốn có một niềm vui trọn vẹn. Thế mà, không hiểu sao giữa tiệc vui lại hết rượu. Đây là sự cố xảy ra ngoài ý muốn của gia đình và cô dâu chú rể. Vì không muốn họ mất đi niềm vui trọn vẹn, nên Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon để cứu giúp họ. Việc Chúa Giêsu đi dự tiệc cưới và làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon nói lên sự quan tâm của Ngài đối với gia đình. Đó lá dấu chỉ Ngài sẽ lập Bí tích hôn phối sau này. Bí tích hôn phối được Chúa thiết lập kết hợp người nam và người nữ thành vợ chồng. Đặc tính của bí tích này là đơn hôn và vĩnh hôn. Nghĩa là phải một vợ một chồng và phải sống với nhau cho đến chết.

  1. Sự quan tâm của các gia nhân

Thông thường trong các đám cưới, ngoài cha mẹ anh em họ hàng ra còn có những người làng xóm, bạn bè…Họ không phải là khách mời, nhưng là những người đến để giúp đỡ. Họ giúp gia chủ những công việc như: Dựng rạp, sắp đặt bàn ghé, trang trí, nấu nướng, bưng bê mâm cỗ…Tại đám cưới ở Cana, vai trò của những người này hết sức quan trọng. Không những họ làm những công việc trên, mà họ còn đóng góp phần mình trong phép lạ hoá nước thành rượu ngon. Sau khi đề nghị với Chúa Giêsu, Mẹ Maria bảo họ: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (x. Ga 2,5). Và khi nghe Chúa Giêsu bảo đổ đầy nước vào các chum. Họ liền làm đúng như vậy. Sau đó, Chúa Giêsu bảo họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” (x. Ga 2,8). Họ cũng làm theo như vậy, và phép lạ đã được thực hiện.

Như vậy, phép lạ hoá nước thành rượu ngon do Chúa Giêsu làm nhưng nhờ lời thỉnh cầu của Mẹ Maria và sự cộng tác tích cực của các gia nhân.

Trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống gia đình, cần có sự quan tâm, giúp đỡ, cộng tác của những người xung quanh. Đó là sự cộng tác: giữa vợ chồng với nhau; giữa cha mẹ và con cái; giữa anh em ruột thịt; giữa bạn bè; giữa làng xóm láng giềng. Mỗi người Chúa ban cho mỗi khả năng, nếu biết quan tâm, giúp đỡ, cộng tác với nhau chắc chắn sẽ đem lại lợi ích to lớn. Thánh Phaolô trong bài đọc II đã nói: “Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người”(1 Cr 12, 9-11).

Cuộc sống cần sự quan tâm. Noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các gia nhân trong bài Tin Mừng, mỗi chúng ta hãy thể hiện sự quan tâm của chúng ta đối với những người xung quanh. Mình giúp người, người giúp mình đó là quy luật của cuộc sống. Để thấy rõ hơn điều đó, chúng ta hãy nghe câu chuyện cảm động sau đây: Một nữ công nhân làm việc tại nhà máy chế biến thịt đông lạnh. Ngày hôm ấy, sau khi hoàn thành công việc, như thường lệ cô đi vào kho đông lạnh để kiểm tra một chút. Đột nhiên, cửa phòng bị đóng và khóa lại, cô bị nhốt ở bên trong mà không một ai biết.

Cô vừa hét khản cổ họng vừa đập cửa với hy vọng có người nghe được tiếng mình mà đến cứu, nhưng vẫn không có ai nghe thấy. Lúc này tất cả công nhân đã tan ca, toàn bộ nhà máy đều yên tĩnh.

Sau 6 giờ chiều hôm ấy, nữ công nhân lạnh cóng người, tuyệt vọng và đau khổ… Đang lúc cô tưởng như không chịu đựng được nữa thì bất ngờ được người bảo vệ đến mở cửa cứu ra ngoài.

Hôm sau, cô gái hỏi người bảo vệ tại sao lại biết mình ở trong đó để đến mở cửa, mặc dù đây không phải khu vực mà ông ấy quản lý.

Người bảo vệ trả lời: “Tôi làm việc ở nhà máy này đã 35 năm rồi. Mỗi ngày đều có mấy trăm công nhân ra ra vào vào. Nhưng cô là người duy nhất mà ngày nào sáng sớm đi làm cũng chào hỏi tôi và buổi tối tan làm lại chào tạm biệt tôi trong khi có rất nhiều người xem như không nhìn thấy tôi vậy! Hôm nay, tôi biết rõ ràng buổi sáng cô có đi làm bởi vì sáng sớm cô còn nói “cháu chào bác!” Nhưng sau khi tan làm buổi chiều, tôi lại không nghe thấy tiếng cô chào: “Tạm biệt bác, hẹn ngày mai gặp lại!” Thế là tôi quyết định đi vào trong nhà xưởng tìm xem xem thế nào. Tôi đi đến những chỗ góc hẻo lánh tìm cô và cuối cùng lại nghe thấy tiếng khóc và tìm thấy cô ở trong kho đông lạnh…”

Hãy luôn khiêm tốn nhã nhặn, yêu thương và tôn trọng những người xung quanh mình bởi vì bạn không thể biết được sự tình gì sẽ xuất hiện vào ngày mai!

(Theo NTDTV, Mai Trà biên dịch)

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đến tham dự tiệc cưới ở Cana và Chúa đã cứu gia đình chủ tiệc một bàn thua trông thấy khi làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon. Ngày hôm nay, nhiều gia đình đang tan nát vì họ thiếu thố đủ thứ: Thiếu tình thương, thiếu sự kính trọng, thiếu sự quan tâm, thiếu niềm tin, thiếu lòng chung thuỷ…Xin Chúa hãy đến với họ để giúp họ như xưa Chúa đã giúp gia chủ và đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana. Amen. [Mục Lục]

16. Có Mẹ đồng hành – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Theo Phúc Âm Thánh Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Khi một Linh mục hay một Giám mục đi dự một đám cưới, chẳng qua là vì tình nghĩa, chứ không phải vì thích ăn uống. Chúa Giêsu đến dự đám cưới này cũng vì tình nghĩa, vì yêu thương, vì đây có lẽ là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nữa chừng.

Tại Palestine tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày. Đám cưới Cana này mới đến ‘ngày thứ ba’ thì đã hết rượu rồi. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó xử. Các rabbi vẫn nói: Không rượu thì không vui, hay người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều xấu hổ, nên họ uống rượu pha hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể.

Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana này. Sáu chum nước thành rượu ngon. Sáu chum đầy chứa khoảng 700 lít. Một lượng rượu khổng lồ.

Chúa Giêsu đi ăn cưới. Người không mang quà cáp hay phong bì. Chúa Giêsu chia sẽ cho cô dâu chú rễ, cho họ hàng đôi bên và mọi người niềm vui của Chúa mà rượu là biểu tượng như lời thánh vịnh 109: Rượu ngon làm phấn khởi lòng người.

Ơn cứu độ là niềm vui. Tiệc cưới được dùng làm hình ảnh Nước Trời. Hôn nhân là hình ảnh Thiên Chúa và Dân Người.

Trong Phúc Âm Gioan chỉ có 7 phép lạ được kể lại. Pháp lạ Cana có một giá trị nổi bật vì đó là dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu làm trong cuộc đời công khai. Các phép lạ trong Phúc âm Gioan không chỉ biểu lộ quyền năng Thiên Chúa mà còn mạc khải về mầu nhiệm Chúa Giêsu. Các phép lạ có tính biểu tượng cao. Các phép lạ là những dấu chỉ cho biết về con người Chúa Giêsu.

Sau mỗi phép lạ thường có một bài giảng nhằm vén mở ý nghĩa sâu xa của phép lạ đó.

Chẳng hạn:

– Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tự giới thiệu: Ta là bánh hằng sống.(Ga 6)

– Sau khi chữa người mù được thấy ánh sáng, Chúa nói: Ta là ánh sáng thế gian.(Ga 9)

– Sau khi cho Lazarô sống lại, Chúa tự nhận: Ta là sự sống lại và là sự sống.(Ga 11)

Vậy phép lạ Cana mang một ý nghĩa nào?

– Phép lạ xảy ra trong một tiệc cưới. Trong Cựu ước, để diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với dân Israel, các Ngôn sứ đã dùng hình ảnh hôn lễ, Thiên Chúa làm đám cưới vời dân mình, Thiên Chúa là chú rễ. Đoạn văn (Is 54, 4-8) là một minh hoạ rất lý thú phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hôsê, đó là Yuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày trở về quê nhà.

– Phép lạ Cana diễn ra trong một bữa tiệc: Bữa tiệc là hình ảnh đựơc dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Messia đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon. Chúa Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người vì mình là chú rễ, là tân lang. Người coi giáo huấn của Người là rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ.

Đọc Tin mừng Chúa nhật hôm nay, chúng ta bắt gặp một chú rễ lúng túng và bất lực vì hết rượu đãi khách. Gia đình chỉ có nước dùng để thanh tẩy theo luật Môisen. Chúa Giêsu xuất hiện như Chú Rễ thực sự của nhân loại. Người biến nước thành rượu, biến nước Cựu ước thành rượu Tân ước. Rượu của Người vừa ngon vừa nhiều, có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang đến thật là nguồn ơn quý giá và dư đầy.

– Tiệc cưới Cana là biểu tượng tiệc cưới Con Thiên Chúa và loài người. Phép lạ nước hoá thành rượu đem lại niềm vui cho người dự tiệc loan báo về mầu nhiệm Thánh Thể; Bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô đem lại nguồn vui ơn cứu độ cho con người.

Mỗi lần dự lễ là một lần dự tiệc. Tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là một phép lạ xảy ra hàng ngày trên bàn thờ, bánh và rượu nên Mính Máu Thánh Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, vì biết rằng Chúa yêu chúng ta, Người trở nên Bánh hằng sống nuôi chúng ta. Cả hai bàn tiệc nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta sống trong niềm tin yêu vào Chúa.

Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.

Phúc âm Gioan chỉ nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19,25-27). Cả hai lần đều có sự hiện diện của Chúa Giêsu và sự hiện diện của con người. Mẹ đã đưa con người đến với Chúa Giêsu ở Cana, và Chúa Giêsu cũng đã đưa Thánh Gioan, đại diện cho các tín hữu đến với Mẹ “Này là Mẹ con”. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo hội, với người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẽ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.

Cuộc sống thường ngày có những trắc trở, những lúng túng, những khó khăn. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước nhan thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: họ hết rượu rồi và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: Hãy làm mọi điều Chúa bảo. [Mục Lục]

17. Rượu hết – Rượu đầy

(Suy niệm của Anmai, CSsR)

Trang Tin mừng cũng như sứ điệp Tin mừng hôm hay hết sức gần gụi và quá ư là dễ thương. Chủ đề Tin mừng hôm nay nói về tiệc cưới! Nghe cái gì chứ nghe đến tiệc thì nó hấp dẫn bởi vì nó làm cho người ta liên tưởng đến mâm cao cỗ đầy trong bữa tiệc. Đang nghe tác giả Tin mừng trình bày về bữa tiệc thật hay đấy bỗng nhiên lại xảy ra sự cố hết rượu!

Một bữa tiệc nho nhỏ như là bữa họp mặt, bữa tiệc sinh nhật hay đơn giản là một bữa mừng gì đó của nhóm bạn thân quen nhau thì thật là vui, thật là quý. Ai ai cũng mong muốn cho những buổi tiệc ấy tạo nên tình thân hữu, tình bè bạn và cũng mong bữa tiệc ấy kết thúc một cách tốt đẹp và sau bữa tiệc ấy lại là lời hẹn cho bữa tiệc sau. Giả như cuộc vui đang lên đỉnh thì bữa tiệc vui ấy ắt hẳn sẽ không còn như mong đợi nữa. Đang vui như vậy mà hết thức ăn thì quả là chán thật! Nếu như thiếu thức ăn thì còn có thể chấp nhận kiếm quả cóc quả ổi để nhâm nhi những “giọt nước mắt quê hương” do gia chủ thết đãi. Và rồi nếu thiếu “nước mắt quê hương” thì quả thật là buồn.

Khi lo cho những bữa tiệc như vậy thì người ta cũng cố gắng hết sức mình để chuẩn bị cho bữa tiệc tươm tất và có khi người ta với tấm lòng rộng rãi còn làm dư cả. Và với thế giới văn minh ngày nay thì còn đó những cái tủ cấp đông để giữ lại thức ăn nếu thừa nên người ta thường hay chuẩn bị nhiều và nhiều thức ăn để cùng nhau chia vui. Thức ăn là vậy, còn rượu bia hay “nước mắt quê hương” ngày nay người ta thường chuẩn bị dư thừa.

Dừng lại một chút, nếu đám tiệc ở thành thị thì cũng khá đơn giản cho chuyện kiếm mồi kiếm bia. Nếu đám tiệc ở thôn quê thì đành rơi vào bế tắt vì lẽ muốn đi mua thêm chút mồi chút rượu quả là điều hơi bị khó. Trong cái khó, cái bế tắt ấy thì ắt hẳn không biết bao nhiêu chuyện sẽ xảy đến và nhất là với những anh chàng bợm nhậu.

Trang Tin mừng hôm nay, câu chuyện tiệc cưới hôm nay dẫn ta đi vào chuyện bế tắt của đôi tân hôn. Tiệc mừng, tiệc sinh nhật, tiệc họp mặt thiếu rượu, thiếu thức ăn thì còn có thể châm chước, còn có thể chấp nhận nhưng đàng này lại là tiệc cưới. Đời ai cũng chỉ một lần nếu sống đời hôn nhân lên xe hoa, thết đãi mọi người trong ngày vui trọng đại nhất của đời mình. Niềm vui, hạnh phúc sẽ trọn vẹn nếu như bữa tiệc ấy được hoàn hảo. Tiệc cưới Cana hôm nay rơi vào bi đát, rơi vào bết tắt khi hết rượu! Thế nhưng đang tưởng rơi vào bế tắt thì Chúa Giêsu lại “ra tay”. Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá nước thành rượu để cứu vãn tình thế có một không hai của đôi hôn nhân.

Chuyện hết rượu của tiệc cưới Cana ngày hôm ấy trở nên khá phổ biến trong các tiệc cưới của ngày hôm nay và trong các bữa tiệc thường nhật của các gia đình ngày hôm nay. Chuyện thiếu rượu ở Cana đã có và phép lạ Cana đã xảy ra. Ngày nay, thiếu rượu trong đời sống gia đình vẫn có và phép lạ rượu đầy ngày hôm nay Chúa Giêsu vẫn làm đấy thôi. Chuyện quan trọng là người ta đã không nhận ra Chúa Giêsu đã, vẫn và sẽ hiện diện trong gia đình và làm phép lạ cho gia đình.

Không phải mới ngày hôm nay mà tự ngàn xưa khi Chúa Giêsu sinh xuống thế làm người Chúa Giêsu đã cảm nhận được cái khốn khó của kiếp người và đặc biệt khi con người rơi vào bế tắt. Chúa Giêsu vẫn yêu thương, Chúa Giêsu vẫn ban rượu dư đầy để cho niềm vui của tiệc cưới cũng như niềm hạnh phúc của gia đình được kéo dài luôn mãi.

Rượu mà Chúa Giêsu ban đấy vẫn dư tràn trên mỗi người nhưng chuyện quan trọng là con người đã khép kín lại, đã khư khư giữ riêng cho mình để rồi phép lạ bị con người cản ngăn đấy thôi. Nếu như con người biết mở lòng ra, san sẻ những gì Chúa ban cho mình thì ắt hẳn niềm vui của tiệc cưới đời mình và niềm vui của gia đình sẽ nhân lên mãi.

Bằng chứng như lời Thánh Phaolô vừa tuyên bố cho giáo đoàn Côrintô cũng như cách nào đó thánh Phaolô tuyên bố cho chúng ta: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người”. (1 Cr 12, 4-11).

Quà của Chúa, đặc sủng của Chúa, ơn của Chúa hay nói cách khác là rượu của Chúa vẫn được phân chia cho mỗi người mỗi mức tuỳ theo ý của Người.

Thử hỏi, trong đời sống thường nhật, nếu như người ta biết cộng tác, biết đóng góp một chút phần của họ, một chút đặc sủng, một chút ơn mà Chúa ban cho họ thì cuộc sống của họ hạnh phúc là dường nào.

Nhớ lại những năm tháng còn ở Học Viện, vào những ngày tháng thực tế mục vụ hè ở vùng Cao, hình ảnh của những anh chị em dân tộc thiểu số nghèo ở vùng Cao thật là hay.

Hôm ấy, ở cái làng Bông La thuộc xã La Sơn huyện Mang Yang – Pleiku có một đám nhưng không phải là đám tiệc mà là đám tang. Hết sức ngạc nhiên khi thấy anh chị em dân tộc thiểu số đi viếng đám tang, đi chia sẻ nỗi đau niềm nhớ của gia đình nhà hiếu bằng bị gạo, bằng vài con cá khô bằng vài trái bắp non. Vì ngạc nhiên nên tò mò hỏi với hình ảnh lạ ấy. Hỏi thăm thì được biết là theo tập tục của anh chị em dân tộc thiểu số là nhà có đám tang thường để cả tuần lễ. Để một tuần lễ như vậy thì chuyện ăn uống sinh hoạt khá tốn kém và là một gánh nặng cho một gia đình nghèo. Để giải quyết những khó khăn trong những ngày tang chế bà con quanh làng mỗi người một chút mang đến nhà hiếu. Họ đến chia sẻ nỗi buồn, sự mất mát của gia đình nhà hiếu bằng cả tấm lòng cộng thêm vài con cá khô, vài lon gạo, vài trái bắp.

Chắc cũng chẳng cần nói nhiều, những bữa cơm chứ không dám nói là bữa tiệc của một tuần lễ tang chế ấy bảo đảm sẽ không bị thiếu dù là nhà hiếu thuộc dạng nhà nghèo. Hình ảnh chung chia, hình ảnh đóng góp của những anh chị em dân tộc nghèo sao mà thân thương quá, sao mà gần gụi quá. Họ, có thể là chưa biết Chúa nhưng họ đã đáp lại lời mời của Chúa hay nói một cách hơi quá là đã chứng minh phép lạ mà Chúa đã làm như đã từng làm ở Cana hay từng làm nơi hoang địa khi hoá bánh ra nhiều.

Mỗi người một ơn riêng, mỗi người một đặc sủng và mỗi người đều có một chút “rượu” trong đời mình. Nếu như mỗi người biết mở rộng lòng mình ra để chung chia chút ơn, chút “rượu” mà Chúa đã ban cho mình thì những đám tiệc hay nói gần hơn một chút là những bữa cơm trong gia đình của mình hết sức hạnh phúc.

Ta có thể đi xa hơn một chút, rộng hơn một chút ở cấp độ làng xóm, ở cấp độ giáo xứ. Nếu như mỗi giáo dân biết chung chia một chút “rượu” của lòng mình thì xóm đạo, giáo xứ của mình sẽ hạnh phúc như đôi tân hôn hôm nay ở Cana mà chúng ta vừa nghe Thánh Gioan thuật lại.

Một sự kiện, một câu chuyện hết sức thực tế, hết sức dễ thương đang xảy ra như đã từng xảy ra ở Cana đó là Đồng Chiêm ngày hôm nay. Đồng Chiêm đang rơi vào cảnh bế tắt, rơi vào ngõ cụt khi bị đàn áp, khủng bố đến tính mạng nhưng mà hình như giáo dân Đồng Chiêm và xứ Ải mỗi người một chút “rượu” để góp phần vào. Và hiện nay, không chỉ giáo dân Đồng Chiêm mà cả giáo dân trong và ngoài nước bằng cách này hay cách khác đã góp một chút “rượu” của mình vào Đồng Chiêm.

Đồng Chiêm đượm mùi sát khí nhưng vẫn vui và hạnh phúc vì ơn Chúa vẫn có đó và vẫn còn đó.

Chúa vẫn hiện diện, Chúa vẫn làm phép lạ trong cuộc đời này nhưng chuyện quan trọng người ta có nhận ra hay không mà thôi.

Rượu đầy, rượu thiếu là do lối nghĩ, lối sống của mỗi người.

Có những người mang trong mình quá nhiều rượu và rượu ấy với nồng độ rất cao là những người có tiếng nói, là những vị có trách nhiệm sẽ giúp cho những đám tiệc, những sự kiện Đồng Chiêm thêm vui và hạnh phúc nhưng lại khư khư giữ lại và cất giấu đi. Họ có vẻ như sợ mất quyền lợi và thiệt thòi khi mang “rượu” của mình vào cuộc đời. Bi đát nhất là họ vẫn vui, vẫn bình thản trước những đau thương mất mát của kitô hữu và của Giáo Hội.

Ngược lại, có những người thấp cổ bé họng rượu cũng ít và nồng độ chẳng là bao lại xả thân đóng góp vào Đồng Chiêm. Những giọt “rượu” nhỏ bé của những con người bé nhỏ xem ra vậy mà hay. Những giọt “rượu” ấy bỗng làm cho Đồng Chiêm càng ấm áp hơn, càng hạnh phúc hơn vì sự hiện diện của Chúa Giêsu, vì “rượu” ấy được ép từ trong men Giêsu.

Rượu vẫn đầy chứ rượu không hề thiếu. Chỉ sợ lòng con người ta cạn và lòng con người ra chai đá mà thôi.

Nguyện xin Chúa Giêsu, Đấng làm phép lạ tại Cana ngày xưa đến và ở lại với mỗi người chúng ta, với chút rượu đã có mà Chúa ban cho mỗi người, thì nay xin Ngài ban thêm một chút nữa cả về số lượng cũng như “nộng độ” để mỗi người chúng ta góp thêm niềm vui, niềm hạnh phúc cho những bữa tiệc hàng ngày trong gia đình, trong xứ đạo của chúng ta. [Mục Lục]

18. Tiệc cưới Cana

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)

Sau khi kêu gọi và tuyển chọn những môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ, là cùng môn đệ đi ăn cưới ở Ca-na. Và tại tiệc cưới này, Chúa lại làm một việc đặc biệt không ai ngờ nữa, là qua sự can thiệp của Đức Maria, Chúa đã biến nước lã thành rượu ngon. Đây là phép lạ đầu tay của Chúa Giêsu, phép lạ đầu tiên Chúa làm khi công khai rao giảng Tin Mừng. Phép lạ này có ý nghĩa thế nào và dạy chúng ta những bài học gì?

Trước hết, ý nghĩa trực tiếp của phép lạ là một sự chữa lành. Mỗi lần chữa bệnh tật thân xác cho người ta, Chúa Giêsu đều nghĩ đến bệnh tật của linh hồn. Ở đây, khi cứu vãn tình yêu hôn nhân của con người. Đôi vợ chồng kia hôm nay đang yêu nhau tha thiết, nhưng tình yêu của họ sẽ kéo dài được bao lâu? Hay rồi cũng như rượu đang nửa chừng thì hết, tình yêu của họ sẽ sớm khô cạn? Giữa những bất trắc của tình vợ chồng, sự bất trung thật đáng sợ. Chúa Giêsu muốn cứu vãn tất cả. Ngài muốn cứu vãn lòng trung thành chung thủy trong cuộc sống hôn nhân.

Như vậy, sự có mặt của Chúa Giêsu ở tiệc cưới này mở màn cho hôn nhân một kỷ nguyên mới, nghĩa là trang sử mới của chế độ bí tích hôn nhân Ki-tô giáo đã bắt đầu. Đây là lễ hôn phối đầu tiên trong đạo mới: đã được chính Chúa Giêsu làm phép cưới, trước sự chứng giám của Mẹ Maria và các tông đồ. Bí tích hôn phối của đạo mới khai nguyên từ đám cưới này. Từ nay hôn nhân phải nhất phu nhât phụ, hôn nhân phải bất khả phân ly, hôn nhân phải được Chúa chúc phúc và Hội Thánh chứng nhận.

Điều quan trọng thứ hai của phép lạ này là sự can thiệp của Đức Maria. Đức Mẹ đã phát hiện ra sự thiếu rượu và nỗi bối rối lo lắng của chủ nhà, của đôi tân hôn, và Đức Mẹ đã can thiệp. Ở đây chúng ta thấy có hai lời của Đức Mẹ, hai lời ấy bổ sung cho nhau và rất đầy ý nghĩa. Lời thứ nhất hướng về Chúa Giêsu để cầu xin: “Họ hết rượu rồi”. Lời thứ hai hướng về các người giúp việc để đưa họ đến với Chúa và làm theo ý của Chúa: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”. Mẹ không ép Chúa làm phép lạ và Mẹ cũng chẳng có quyền đó. Phép lạ Ca-na là do quyết định cuối cùng của Chúa Giêsu, nhưng chắc chắn có sự đóng góp, can thiệp của Mẹ Maria, một người mẹ nhạy cảm và từ ái. Nói rõ hơn, phép lạ Ca-na Chúa Giêsu đã làm theo ý mẹ mình để minh xác đã đến “giờ” mẹ có một sứ mệnh đặc biệt đối với Chúa và đối với nhân loại.

Đối với chúng ta hôm nay, nhìn những đôi tân hôn tươi cười bước đến nhà thờ, nắm tay nhau công khai hứa trọn đời yêu nhau, ai lại không vui, ai lại không cảm động.Niềm vui ấy lại được củng cố thêm bằng bữa tiệc vui, khi bà con hai họ và bạn bè nâng ly chúc mừng đôi tân hôn được tràn đầy hạnh phúc. Nhưng niềm vui ấy có khi nào lụi tàn không? Tàn lụi khi hạ ly xuống, khi bước xuống xe hoa, sau một vài tuần hay sau vài năm? Câu hỏi đó không thừa với thời nay khi mà rất nhiều gia đình, trong đó có gia đình Công giáo, sau một thời gian chung sống đã cạn chén rượu tình thương.

Trong niềm tin, người Ki-tô hữu biết rằng: Đức Maria vẫn ở với loài người, vẫn chia sẻ niềm vui và nỗi lo lắng của con người. Mẹ là Đấng chuyển cầu cho những ai trong hoàn cảnh khốn cùng, lo âu, đau khổ. Mẹ thưa với Chúa về mọi nhu cầu cần thiết của từng người và tình trạng của từng gia đình lên Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi”, nghĩa là gia đình họ đang gặp đau khổ, có nguy cơ tan rã. Đó là tư tưởng mà Kinh Thánh thường dùng để nói lên tình trạng đau khổ của mọi người. Nhưng muốn có rượu ngon phải tuân thủ một điều kiện tiên quyết: “Người bảo gì thì cứ làm theo”. Đó là lời Đức Mẹ nói với những người giúp việc trong tiệc cưới Ca-na. Đó cũng là lời Đức Mẹ nói với nhân loại ở mọi nơi, mọi thời. Đó là điều kiện không thể thiếu để lời chuyển cầu của Đức Mẹ đạt kết quả. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn trong gia đình.

Còn đối với giới trẻ, chưa lập gia đình hay sắp lập gia đình, cần biết: hôn nhân liên hệ đến hạnh phúc cả một cuộc đời, nên cần phải được chuẩn bị cẩn thận. Tạo nên một gia đình, một tổ ấm cho suốt cuộc đời quả thực là một việc hết sức quan trọng và khó khăn. Các bạn đừng bao giờ bồng bột, hấp tấp, vội vàng trong việc hệ trọng này, để rồi khi về với nhau thì: giai đoạn đầu: hai người nhìn nhau mà no. Giai đoạn hai: hai người nhìn nhau mà ngáp. Giai đoạn ba: nhìn chén dĩa bay. Hay cuộc sống gia đình trở thành một bi hài kịch, bi hài kịch của Pát-can, cũng gồm ba giai đoạn: giai đoạn đầu: chàng nói nàng nghe, nàng nói chàng nghe. Giai đoạn hai, chàng nói chàng nghe, nàng nói nàng nghe. Giai đoạn ba: cả hai cùng nói, hàng xóm nghe.

Vậy muốn cho đời sống hôn nhân mai ngày trở nên “dễ thở”, nếu không được là thiên đàng hạ giới, ít là không phải địa ngục trần gian, các bạn phải chuẩn bị cẩn thận và chu đáo. Việc cần thiết trước khi lập gia đình là học hỏi: học hỏi để biết mình và biết người. Hai người xa lạ khác biệt nhau, nhưng rồi sẽ chung sống với nhau, bổ túc cho nhau: hai mà phải nên một: “Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”. Chuẩn bị là đối thoại, là trao đổi ý kiến để đi đến mẫu số chung về cuộc sống mai sau. Chuẩn bị là cầu nguyện, cầu nguyện sóng đôi, để tìm hiểu, để đi dần đến mầu nhiệm hôn nhân của bí tích mà hai người sẽ trao và sẽ nhận trước bàn thờ Chúa.

Chúng ta cầu nguyện cho gia đình chúng ta hôm nay, cho tất cả các gia đình, và cầu nguyện cho nhau. [Mục Lục]

19. Ý nghĩa phép lạ Cana – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Dịp hành hương Đất Thánh, chúng tôi có viếng thăm Nhà Thờ Cana. Nơi đây cách Nagiarét 7km về hướng Bắc. Một vùng nông thôn nằm giữa Nazarét và biển hồ Tibêria, ngày nay gọi là Kefr Kenna. Cana cũng là quê hương của Tông đồ Nathanael (Batôlômêô).

Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên tại Cana. Ngài biến nước thành rượu hảo hạng (Ga 2,1-12). Tiệc đang vui vẻ mà rượu gần cạn. Gia đình lo lắng, sợ mất mặt với khách dự tiệc… Mẹ Maria quan tâm đặc biệt. Mẹ ngỏ ý với Chúa: “Họ hết rượu rồi”. Mẹ nói với gia nhân: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm theo”. Chúa Giêsu nói với gia nhân: “Hãy đổ nước đầy chum”. Họ đổ tới miệng chum. Và Chúa bảo họ: “Bây giờ hãy múc nước đem cho người quản tiệc”. Nước đã biến thành rượu ngon. Người quản tiệc bỡ ngỡ, thực khách vui mừng.

Chúa Giêsu còn thực hiện một phép lạ khác tại Cana: chữa lành cho con một sĩ quan cận vệ nhà vua (Ga 4,46-54).

Từ chỗ dừng xe, phải leo lên một đoạn dốc cao, hai bên có nhiều quày hàng bán quà lưu niệm vui vẻ mời chào.Chúng tôi thấy một ngôi Thánh đường có hai tháp, biểu tượng cho đôi lứa và một vòm ở giữa tượng trưng sự tận hiến của đơn vị gia đình.

Bên trong Thánh đường, người ta đặt chum rượu của thời Chúa Giêsu một cách cung kính ở ngay Cung Thánh. Những chum đá dưới bàn thờ cũng như ở tầng hầm có từ thế kỷ V. Chum có hình dáng như chum đá tại tiệc cưới Cana ngày xưa. Nơi đây như trình bày đặc ân mà Chúa muốn dành phép lạ đầu tiên để thánh hóa tình yêu lứa đôi và kiện toàn thể chế gia đình bền vững. Có một chum đá to được trưng bày trang trọng cho khách tham quan ngắm nhìn; đây là 1 trong 6 chum đá của phép lạ Cana được các nhà khảo cổ tìm thấy.

Có nhiều đoàn hành hương đã cử hành nghi thức lập lại lời hôn ước cho những cặp vợ chồng tại Nhà thờ Cana. Có những đoàn chọn Cana để kỷ niệm ngày thành hôn. Xin Chúa chúc lành cho hạnh phúc lứa đôi tại nơi này thì thật là ý nghĩa.

Chúng tôi quỳ gối đọc kinh, cầu nguyện cho những người sống đời đôi bạn được hạnh phúc, tín trung.

Phía trước Nhà thờ có nhiều quày bày bán quà lưu niệm. Những chai rượu Cana là quà mừng cho người thân bạn bè được du khách ưa chuộng nhất. Rượu nho sản xuất tại Cana. Ai cũng mua vài chai làm quà tặng quý giá như rượu chính phẩm được Chúa làm phép lạ năm xưa.

  1. Phép lạ đầu tiên

Theo Tin Mừng Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Có thể là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nữa chừng.

Tại Palestina, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà, mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do Thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày.

Đám cưới Cana này mới đến ngày thứ ba thì đã hết rượu rồi. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó xử. Các Rápbi vẫn nói: Không rượu thì không vui. Người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Say rượu là một điều thật xấu hổ, nên họ uống rượu pha, hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều hổ thẹn, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể. Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana này. Sáu chum nước thành rượu ngon. Sáu chum đầy chứa khoảng 700 lít. Một lượng rượu khổng lồ.

Chúa Giêsu đi ăn cưới. Người không mang quà cáp hay phong bì. Chúa Giêsu chia sẻ cho cô dâu chú rể, cho họ hàng đôi bên và mọi người niềm vui của Người mà rượu là biểu tượng như lời Thánh Vịnh 109: “Rượu ngon làm phấn khởi lòng người”. Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng. Chúa Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10). Rượu Chúa Giêsu cung cấp được lấy từ nước của Do Thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Luật Môsê được thay thế bằng chất lượng Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn mới (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga 14,20).

Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn còn bị thiếu nữa. Có một thứ rượu tuyệt hảo được ban tặng bởi Tân Lang đích thực là Chúa Giêsu. Ơn Cứu Độ chính là niềm vui trọng đại. Tiệc cưới được dùng làm hình ảnh Nước Trời. Hôn nhân là hình ảnh Thiên Chúa và Dân Người.

Trong Tin Mừng Gioan, có 7 phép lạ được kể lại. Pháp lạ Cana có một giá trị nổi bật vì đó là dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu làm trong cuộc đời công khai. Các phép lạ trong Tin Mừng theo Thánh Gioan không chỉ biểu lộ quyền năng Thiên Chúa mà còn mạc khải về mầu nhiệm Chúa Giêsu. Các phép lạ có tính biểu tượng cao. Các phép lạ là những dấu chỉ cho biết về con người Chúa Giêsu.

Sau mỗi phép lạ thường có một bài giảng nhằm vén mở ý nghĩa sâu xa của phép lạ đó. Chẳng hạn:

– Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa tự giới thiệu: “Ta là bánh hằng sống” (Ga 6).

– Sau khi chữa người mù được thấy ánh sáng, Chúa nói: “Ta là ánh sáng thế gian”(Ga 9).

– Sau khi cho Ladarô sống lại, Chúa tự nhận: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11).

  1. Ý nghĩa phép lạ Cana

– Phép lạ Cana xảy ra trong một tiệc cưới. Trong Cựu Ước, để diễn tả Tình Yêu Thiên Chúa đối với dân Israen, các Ngôn Sứ đã dùng hình ảnh hôn lễ, Thiên Chúa làm đám cưới với dân của Ngài. Thiên Chúa là chú rể. Đoạn văn (Is 54, 4-8) là một minh hoạ rất lý thú phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hôsê, đó là Giuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày trở về quê nhà. Chủ đề của bài đọc I là cuộc phục hưng Giêrusalem trong tương lai được diển tả bằng ngôn ngữ hôn ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “hôn thê” cho dân Ngài. “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”. Niềm vui của Giáo Ước được làm mới lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, tiên báo niềm vui thời Mêsia, niềm vui dạt dào như rược tiệc cưới Cana.

Sự hiện diện của Chúa Giêsu ở tiệc cưới Cana mở màn cho hôn nhân Kitô giáo một kỷ nguyên mới. Đây là lễ hôn phối đầu tiên trong đạo mới. Chính Chúa Giêsu làm phép cưới, trước sự chứng giám của Mẹ Maria và các Tông Đồ. Bí tích Hôn phối của đạo mới khai nguyên từ đám cưới này. Dựa trên học thuyết của thánh Phaolô trong thư gửi Êphêsô, ca tụng tình yêu chồng vợ cao đẹp như tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Giáo Hội là hiền thê (Ep 5,22-33), Giáo Hội khẳng định “Chúa Kitô đã nâng hôn nhân giữa hai người được rửa tội lên hàng bí tích” (Giáo Luật # 1055). Từ nay, hôn nhân có đặc tính là nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly; hôn nhân được Chúa chúc phúc và được Giáo Hội chứng nhận.

– Phép lạ Cana diễn ra trong một bữa tiệc. Bữa tiệc là hình ảnh được dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Mêsia đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon”. Chúa Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người ví mình là chú rể, là tân lang. Chúa Giêsu ví giáo huấn của Người là rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ. Đọc trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp một chú rể lúng túng và bất lực vì hết rượu đãi khách. Gia đình chỉ có nước dùng để thanh tẩy theo luật Môsê. Chúa Giêsu xuất hiện như Chú Rể thực sự của nhân loại. Người biến nước thành rượu, biến nước Cựu Ước thành rượu Tân Ước. Rượu của Người vừa ngon vừa nhiều, có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy Ơn Cứu Độ do Chúa Giêsu mang đến thật là nguồn ơn quý giá và dư đầy.

– Tiệc cưới Cana là biểu tượng Tiệc Cưới Con Thiên Chúa và loài người. Phép lạ nước hoá thành rượu đem lại niềm vui cho người dự tiệc loan báo về mầu nhiệm Thánh Thể; bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô đem lại nguồn vui Ơn Cứu Độ cho con người.Mỗi lần dự lễ là một lần dự tiệc. Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể là một phép lạ xảy ra hàng ngày trên bàn thờ, bánh và rượu nên Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, vì biết rằng Chúa yêu chúng ta, Người trở nên Bánh Hằng Sống nuôi chúng ta. Cả hai bàn tiệc nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta sống trong niềm tin yêu vào Thiên Chúa.

  1. Hãy đến với Mẹ Maria

Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.

Tin Mừng Gioan nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19, 25- 27). Cả hai lần đều có sự hiện diện của Chúa Giêsu và sự hiện diện của con người. Mẹ đã đưa con người đến với Chúa Giêsu ở Cana, và Chúa Giêsu cũng đã đưa Thánh Gioan, đại diện cho các tín hữu đến với Mẹ “Này là Mẹ con”. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẻ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.

Cuộc sống thường ngày có những trắc trở, những lúng túng, những khó khăn. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước Nhan Thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: “Hãy làm mọi điều Chúa bảo…”. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn vơi trong gia đình chúng ta. [Mục Lục]

20. Mẹ Maria

Đám cưới ở Do Thái là một dịp vui mừng. Thay vì tuần trăng mật, thì họ tổ chức tiệc tùng kéo dài cả tuần lễ. Vì thế số lượng rượu phải được tính toán cẩn thận kẻo bị thiếu hụt. Và sự kiện này lại xảy ra ở Cana, một thành phố nhỏ năm giữa Nadarét và biển hồ Tiberiat, là quê hương sinh trưởng của Nathanael, là nơi Chúa cho con của một sĩ quan gần chết được khỏi bệnh. Dù sao thì bữa tiệc hôm ấy không còn một giọt rượu nào, mà Chúa Giêsu và Mẹ Maria lại có mặt ở đó, vì có lẽ là chỗ bà con họ hàng.

Bấy giờ người ta chưa biết gì về uy quyền của Chúa, họ chỉ nhận ra Ngài là một người thợ mộc chân thành, không tiếng tăm. Nhưng mấu chốt là nơi Mẹ Ngài. Các bà mẹ thường nhìn thấy những điều cần thiết. Huống chi là Đức Mairia. Mẹ ân cần thưa lên với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi. Bên ngoài, câu nói này có vẻ như xa vời, nhưng bên trong là cả một lời van xin thầm kín, không nài ép nhưng đầy lòng tin tưởng. Trông thâm tâm, Mẹ nghĩ rằng có lẽ con mình sẽ giúp được gì cho họ, chứ chưa hẳn đã là một phép lạ. Cũng vì tin tưởng, Mẹ đã rỉ tai các gia nhân: Hễ Ngài dạy sao thì cứ làm như vậy.

Sau những lời thưa trình của Đức Mẹ, Chúa Giêsu trả lời một cách hững hờ: Tôi với bà có liên can gì. Câu trả lời hàm ý một sự chối từ. nhưng ở đây, một lần nữa, qua lòng tin nổi bật của Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã ra tay cứu giúp đôi tân hôn bằng một phép lạ lẫy lừng.

Sau này, Chúa cũng làm như vậy trong trường hợp người đàn bà xứ Canaan, ở đó Chúa tuyên bố Ngài không đến cho dân ngoại, nhưng cũng vì đức tin của bà mà Chúa đã ban phép lạ. Phải chăng Chúa Cha muốn Đức Kitô làm pháp lạ, theo lời Mẹ Maria cầu xin. Vì thế Công đồng Vat. II đã nói: Trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, Mẹ Ngài chỉ xuất hiện vào lúc đầu trong tiệc cưới Cana. Mẹ đã động lòng trắc ẩn và nhờ lời thỉnh cầu của Mẹ. Chúa Giêsu đã khai mạc bằng phép lạ của Ngài.

Thực vậy, sau những lời trao đổi giữa hai mẹ con, mà không một ai để ý đến. Khách khứa, thì bận ăn bận nói. Chúa Giêsu đến gần các gia nhân và bảo họ: Hãy múc nước đổ đầy 6 chiếc chum bằng đất vốn đựng nước để ráy. Mỗi chum khoảng từ 60-80 lít. Các gia nhân đã lập tức vâng nghe, không ai trong họ đã phản đối, hay nghĩ thế này thế khác. Sự vâng phục này đã là một dịp tốt đưa đến phép lạ.

Dưới khía cạnh tín lý, biến cố này chứng tỏ rằng Mẹ Maria có một sứ mạng đặc biệt. Sứ mạng này gồm có sự bầu cử và trung gian của Mẹ cho loài người trước tôn nhan Chúa. Thế nhưng, chúng ta có biết chạy đến với Mẹ, nhất là trong những giờ phút tăm tối và u buồn, để xin Mẹ bầu cử và nâng đỡ hay không? [Mục Lục]

21. Thiên Chúa cảm thông và yêu mến

“Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana. Trong đám cưới có Mẹ Maria. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự”. (Lc 2, 1-2)

Phép lạ tại tiệc cưới Cana là phép lạ đầu tiên Chúa Giêsu làm, khởi đầu cuộc đời hoạt động công khai của Chúa, cũng là vừa để củng cố lòng tin cho các môn đệ, mới vừa gia nhập chỉ mấy hôm thôi. Ở đây, chúng ta thấy một khía cạnh đáng kinh ngạc, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu thế, mà cũng “đi ăn đám cưới, đi dự tiệc như một người trần chúng ta”, một hình ảnh gần gủi và thân thương quá! Điều này: muốn nói lên: Đức Kitô trong bản tính là con người, Người cũng có bản tính là người y như ta; lại rất gắn bó, rất cảm thông với niềm vui và nổi khổ của con người. Hình ảnh việc Chúa đi ăn cưới, rồi lại can thiệp để cứu giúp gia đình nhà đám khỏi xấu hổ vì thiếu rượu, điều đó nói lên cách hùng hồn tình yêu cao cả của Con TC trước khổ đau nhân loại chúng ta. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

Trước hết có vài từ chúng ta cần lưu ý, và tìm hiểu ý nghĩa cặn kẽ:

Cana: một làng quê nhỏ bé, cách Nadareth 10cs, quê hương của tông đồ Nathanael.

Tiệc cưới đối với người Do thái là một dịp vui và bận rộn nhất trong đời họ, vừa nói lên sự quan hệ họ hàng khá lớn. Thường tiệc cưới được tổ chức cả 7 ngày (người tái hôn, cũng phải 3 ngày). Gia đình nhà đám tại Cana là hạng khá giả, nên họ dùng nhiều chum đựng nước cho khách rửa chân khi mới vào. Tất cả là 6 cái, mỗi cái gần 120 lít nước, vị chi gần 2/3 m 3 khối nước. Chúa làm phép lạ cho 700 lít nước thành rượu, thì khách dự tiệc là bao nhiêu mới uống hết rượu đây? Rượu là thức uống đem lại phấn khởi, vui tươi cho con người, nhất là trong đám tiệc, nhất là khi người ta uống điều độ. Chính Chúa Giêsu cũng uống rượu. Một điểm cuối cùng, lời thưa can thiệp của Mẹ Maria: “họ hết rượu rồi”. Câu trả lời của Chúa Giêsu: “thưa Bà” (Imma) là một lời thưa đầy kính trọng, và ở nơi công cộng, hoàn toàn không có gì là coi thường Mẹ mình cả… Cũng chính nhờ lời can thiệp này mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ. Có các nhà chú giải cho rằng: gần như Chúa chờ đợi Mẹ Maria cầu xin Người, để Chúa làm phép lạ; thiết nghĩ điều này không sai, vì Mẹ Maria có vai trò là Đấng Đồng công cứu chuộc với Chúa Cứu thế; hơn nữa, Chúa đợi Mẹ cầu xin, một lời cầu xin mà Chúa rất hài lòng và Chúa không bao giờ từ chối. Vì vậy sự can thiệp của Mẹ ở đây là điều rất chính đáng…

Tình yêu của Con Thiên Chúa dành cho nhà đám:

Chúng ta thử tưởng tượng gương mặt của chú rể, là chủ đám cưới, anh này sẽ ngạc nhiên và cuối cùng thán phục Chúa biết bao, khi hiểu ra vì thương gia đình anh mà đã làm phép cho nước lã hóa thành rượu. Rõ ràng chúng ta thấy Chúa Giêsu vì yêu mến và kính trọng gia đình này, nên đã đến đây dự tiệc cưới; rồi chúng ta lại thấy Chúa cảm thông và sẵn sàng chia sẻ với con người chúng ta bất cứ lúc nào qua việc biến nước thành rượu, để giữ lại sĩ diện nhà đám nữa. Như vậy, Người đã cư xử hết sức là con người, vì Chúa cũng thật sự mang bản tính con người y như ta.

Gợi ý sống và chia sẻ:

* Chúa Giêsu tuy là Chúa, cũng là người như ta, trong bản tính con người, nên người có thể cảm thông, chia sẻ, yêu thương chúng ta. Có điều chúng ta có thực sự tin cách mãnh liệt rằng: Thiên Chúa yêu ta không?

* Mẹ Maria đã xin Chúa: “họ hết rượu rồi”; tuy Chúa trả lời: “giờ Con chưa đến”. Đó không phải là lời từ chối, vì Đức Mẹ vẫn tin vào Con Chí thánh của mình. Câu nói của Chúa chính là: giờ của Con chưa đến, nhưng vì Mẹ đã xin nên Con sẵn sàng làm theo Ý của Mẹ. Mẹ rất tin cậy nơi Chúa Giêsu. Phần ta, ta có tin và luôn trông cậy vào Chúa như Mẹ Maria không? [Mục Lục]

22. Tiệc cưới.

Có nhiều người cho rằng: niềm vui không thể đi đôi với niềm tin. Chỉ có ăn chay hãm mình mới là sống đạo. Chỉ khi nào chấp nhận những hy sinh gian khổ thì mới có công phúc. Còn vui tươi hớn hở không phải là thái độ trọng kính đối với Thiên Chúa. Quan niệm sai lầm này khiến họ sống đạo một cách khô khan, nhăn nhó và phục vụ Chúa với nét mặt sầu thảm.

Thế nhưng, qua đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy hoàn toàn khác hẳn. Dấu chỉ tiệc cưới Cana cho hay Thiên Chúa muốn chúng ta sống vui tươi, hồn nhiên và trong sáng, bởi VÌ cái tin mà Ngài đem đến không phải là tin buồn, tin sầu, nhưng là một tin vui, tin mừng. Và nếu chúng ta thực sự sống niềm tin ấy, thì khuôn mặt chúng ta sẽ rạng lên nét vui mừng. Đúng như một câu danh ngôn đã bảo:

– Un saint triste, triste saint. Một ông thánh buồn, là một ông thánh đáng buồn vậy.

Dấu chỉ tiệc cưới Cana dạy cho chúng ta biết rằng để gặp gỡ Đức Kitô chúng ta không cần phải là người thoát tục, trở nên như các thiên thần, nhưng chỉ cần hiểu rõ và trở thành loài người hơn, sống trọn vẹn ơn gọi làm người của chúng ta theo gương Chúa Giêsu nhập thể.

Và để có thể thực hiện ơn gọi làm người, thì cần phải tập và sống các nhân đức nhân bản mỗi ngày. Càng biết sống sâu đậm các nhân đức tự nhiên ấy, chúng ta càng trở nên giống Chúa Giêsu làm người.

Đó là nền tảng vững chắc đầu tiên của ơn gọi Kitô hữu, bởi vì nếu thiếu các nhân đức nhân bản này, người tín hữu sẽ mất quân bình, dễ trở thành cuồng tín và lệch lạc. Trước khi trở thành người Kitô hữu, thì chúng ta phải là người, theo đúng ý nghĩa của nó.

Ngoài ra dấu chỉ của tiệc cưới Cana còn cho chúng ta biết rằng của cải trần gian và các tiện nghi vật chất chúng không có gì là xấu xa và nguy hại. Chúng chỉ xấu xa và nguy hại khi làm cho chúng ta đánh mất chất người, biến chúng ta trở thành ích kỷ độc ác và bất công.

Thật ra chỉ có con người là đáng chê trách, chứ không phải là của cải. Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ mọi người phải biết sử dụng đúng đắn tất cả những ơn sủng Thiên Chúa ban cho. Kẻ ít người nhiều, ai cũng nhận được một số ơn sủng tuỳ theo sự khôn ngoan quan phòng của Thiên Chúa. Cần phải tận dụng tất cả các ơn sủng đó, để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho tha nhân. Chính các ơn sủng này làm thành sự phong phú của cộng đoàn dân Chúa.

Tóm lại ý thức được những ơn Chúa ban, chúng ta hãy biết tận dụng để phục vụ Thiên Chúa trong anh em, theo mẫu gương của Đức Kitô. [Mục Lục]

23. Biến đổi kỳ diệu

Câu chuyện hoá nước thành rượu ngon có thể nói là câu chuyện đẹp nhất trong những trang Tin mừng theo thánh Gioan. Hình ảnh Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ Chúa đến tham dự tiệc cưới Cana cùng với mọi người thân thích nơi đây làm thành một bức tranh tuyệt đẹp về sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người. Chúa Giêsu đi vào cuộc sống của con người một cách rất bình dị và thật gần gũi. Ngài vui với niềm vui của kẻ khác. Ngài sẵn lòng chia sẻ với họ những khó khăn trong đời sống. Đúng như những gì Ngài đã nói: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”.

Người ta vẫn thường quen trích dẫn câu chuyện Chúa Giêsu biến nước thành rượu để cho thấy vai trò bầu cử của Đức Mẹ Maria trước mặt Thiên Chúa có hiệu quả như thế nào! Thật ra câu chuyện này không hề mang ý nghĩa đó. Chúa Giêsu đến trong trần gian này là để thực thị sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha. Những lời Ngài rao giảng, những phép lạ Chúa làm đều được thực hiện dưới sự hướng dẫn và hoàn toàn theo Thánh ý của Chúa Cha muốn. Ngài không bao giờ để cho ai ngoài Thiên Chúa Cha có thể tác động trên những lời nói và việc làm của Ngài dù người đó là Mẹ Maria đi nữa! Có thể chúng ta vẫn quen hiểu rằng: kết quả của việc Chúa Giêsu biến nước thành rượu là nhờ lời thỉnh cầu của Mẹ Maria. Thật ra không phải thế. Câu trả lời xem ra có vẻ lạnh nhạt của Chúa Giêsu với Mẹ Maria đã nói lên điều đó: “Này Bà, Tôi với Bà có can chi đâu? Giờ Tôi chưa đến”. Câu nói này không phải bao giờ là sự bất hiếu của Chúa Giêsu với Mẹ Ngài. Nhưng câu nói ấy cho thấy rằng: hành động Chúa Giêsu đã, đang và sẽ làm không bao giờ bị trói buộc bởi lời cầu xin của con người.

Cũng có lẽ chúng ta suy nghĩ trong lòng rằng: Chúa Giêsu là người “ngôn hành bất nhất”, nói khác mà làm thì khác. Bởi vì xem ra Chúa không nhận lời Đức Mẹ xin, nhưng sau đó thì lại làm theo. Không phải Chúa Giêsu hối hận trong lời nói rồi thi hành phép lạ để Mẹ Ngài vui lòng! Không. Ngài làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon này là do sáng kiến của Ngài, hay nói đúng hơn là Ngài thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa Cha. Phép lạ này chắc chắn làm cho mọi người có mặt trong tiệc cưới ở Cana nói chung và Đức Mẹ nói riêng rất vui và rất hài lòng nhưng cần nói lại một lần nữa: phép lạ ấy không phải nhờ vào lời bầu cử của Đức Mẹ mà có. Tuy nhiên, chúng ta không phủ nhận lời cầu xin của Đức Mẹ, cũng không có ý nói rằng: lời nói của Đức Mẹ là dư thừa trước mặt Thiên Chúa. Không phải thế! Lời bầu cữ của Mẹ rất có thế giá trước mặt Thiên Chúa nhưng không phải là lúc này và không phải trong trường hợp này.

Giờ đây, chúng ta hãy tìm hiểu xem đâu là ý nghĩa đích thực của phép lạ biến nước thành rượu ngon này?

Chúa Giêsu đã nói: “Giờ tôi chưa đến”. Dù vậy, Ngài vẫn thực hiện phép lạ đầu tiên này tại tiệc cưới Cana nhằm tỏ bày vinh quang Thiên Chúa nơi Ngài, đồng thời cũng cho các môn đệ của Ngài nhìn thấy và tin vào Ngài. Phép lạ xảy ra là do lòng tin nhưng phép lạ cũng nhằm cũng cố niềm tin nơi con người.

Qua phép lạ này, chúng ta cũng thấy được rằng: Chúa Giêsu đã đi vào cuộc sống của con người với tấm lòng của người cha, người mẹ và Ngài đã làm cho cuộc sống thêm hương vị đậm đà của tình thươn, thêm vị nồng nàn của sự thánh thiện.

Cuộc sống của chúng ta nếu không có Chúa thì sẽ nhạt nhẽo lắm, sánh ví như nước lã vậy. Trong tiệc cưới Cana hôm ấy, nếu không có Chúa hiện diện thì nó sẽ nhạt nhẽo biết là dường nào! Chủ nhà tiệc sẽ phải xấu hổ lắm trước mặt quan khách, vì chỉ có nước lạnh mà không có rượu nồng. Nhưng may thay, Chúa Giêsu đã hiện diện và Ngài đã “cứu một bàn thua trông thấy” cho chủ tiệc cưới. Chúa đã đem đến niềm vui trọn vẹn cho con người.

Cũng vậy, mọi công việc chúng ta làm nếu không có Chúa thì cũng sẽ nhạt nhẽo lắm. ý nghĩa của nó chắc chắn sẽ không bao giờ trọn vẹn được. Chính Chúa sẽ mặc cho những công việc làm của chúng ta ý nghĩa tốt đẹp trọn vẹn của nó. Công việc của Cha Damien khi chăm sóc người cùi, công việc qui tụ những người nghèo cùng cực của Mẹ Têrêsa sẽ trở nên nhàm chán và ghê sợ nếu Cha Damien và Mẹ Têrêsa không được Chúa nâng đỡ và chúc phúc. Chính vì nhận thấy Chúa Giêsu hiện diện trong những con người đáng thương ấy mà những chiến sĩ của Chúa đã dấn thân đến quên mình.

Đời sống gia đình có thể sẽ trở thành nặng nề và nhàm chán lắm nếu gia đình ấy không có Chúa ở cùng để chúc phúc cho họ. Gia đình có Chúa là gia đình có mái che! Chính Chúa sẽ làm cho hạnh phúc nơi gia đình mãi thêm nồng nàn, mặn mà và mạnh mẽ. Chính Chúa sẽ chở che và ban phúc cho những gia đình nào biết chọn Chúa làm gia nghiệp và làm chủ của mình.

Lạy Chúa, Chúa thật là nguồn sống và niềm hy vọng vững chắc cho chúng con. Amen. [Mục Lục]

24. Tiệc cưới Cana – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Thường niên, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cùng với Chúa Giêsu sống những ngày (đầu sứ vụ công khai). Thánh Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người biết: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian” (Phụng vụ Năm A); tiếp đến có ba môn đệ là: Anrê, Phêrô và Philipphê đã bỏ tất cả mọi sự mà đi theo người (Phụng vụ Năm B); có đồ đệ, thầy trò Đức Giêsu đi dự tiệc cưới, tại đây phép lạ đầu tiên xảy ra tại tiệc cưới Cana, khiến nước hóa thành rượu, nhờ sự can thiệp của Rất Thánh Trinh Nữ Maria, (Phụng vụ Năm C). Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, với đức tin sống động, tinh tuyền và kiên vững, chỉ cho chúng ta nguồn gốc của một trong những dấu chỉ, và thực tại của nó, mà chúng ta sẽ được tham dự trong tương lai, nếu chúng ta làm “tất cả những gì Chúa Giêsu, Đấng là Tình Yêu Vĩnh Cửu (biểu tượng của rượu) dạy bảo. Lời dẫn vào Thánh lễ: “Lạy Chúa, toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh, Lạy Chúa Trời cao cả” (Lời nhập lễ). (“Hãy ca ngợi Chúa bằng một khúc ca mới, hỡi hoàn vũ, hãy ca ngợi Chúa, hãy ca ngợi Chúa, tôn vinh danh thánh Người”.) (Tv. 95)

Theo Thánh Maximus, Giám mục thành Turin thì Rượu mà Đức Giêsu hóa từ nước thành, chính là Rượu mới của niềm vui đích thực.

Bởi Vị Thiên Chúa theo Phúc Âm mô tả đã được mời đến dự tiệc cưới. Như thế, Con Thiên Chúa đã đi dự tiệc cưới, và bằng sự hiện diện của mình, Ngài đã thánh hóa mối tình của đôi tân hôn bằng việc hóa nước thành Rượu. Ngài đã đến dự đám cưới, theo luật cũ, để chọn trong dân ngoại một người vợ sẽ luôn luôn giữ mình đồng trinh. Ngài không sinh ra từ cuộc hôn nhân của loài người như Kinh Tin Kính chúng ta đọc: “Được sinh ra mà không phải được tạo thành”. Ngài đi đến đám cưới, không phải để tham dự một bữa tiệc vui vẻ như bao nhiêu bữa tiệc. Ngài đến để mạc khải một điều kỳ diệu thực sự, hết sức đáng ngưỡng mộ. Ngài đến dự tiệc cưới, không phải để uống rượu, nhưng để trao ban cho rượu ngon nồng. Và khi mọi thực khách đang dự tiệc, bỗng thiếu rượu, Đức Maria, Mẹ Ngài đã nói với Ngài: “Họ hết rượu rồi.” Chúa Giêsu, dường như trả lời với vẻ không vui cho lắm: “Hỡi bà, bà muốn tôi điều gì? “… khi trả lời: “Giờ của con chưa đến”, chắc chắn đây là lúc Ngài loan báo giờ vinh quang của Ngài nơi cuộc Thương Khó, hoặc chính máu Ngài là rượu đổ ra để trao ban sự sống, và ơn cứu độ cho nhiều người. Mẹ Marie xin một đặc ân hiện tại, còn Chúa Giêsu, Ngài lại chuẩn bị trao ban niềm vui muôn thủa trong tương lai. Tuy nhiên, Thiên Chúa nhân lành đã không ngần ngại trao ban những điều nhỏ mọn cho con người, trong khi chờ đợi những điều lớn xảy đến.

Đức Maria, người mẹ diễm phúc, vì Mẹ là Mẹ thật của ConThiên Chúa, nên Mẹ đã biết trước ý định của Con Mẹ, và thấy trước được điều gì sẽ xảy đến. Đó là lý do tại sao sau khi Mẹ yêu cầu Đức Giêsu, Con Mẹ, Mẹ nhận được câu trả lời: “Việc đó có liên quan gì đến bà và tôi”; Mẹ vẫn căn dặn những gia nhân quản tiệc cưới hãy làm bất cứ điều gì Con Mẹ yêu cầu: “Người bảo sao cứ làm như vậy”. Người mẹ thiêng liêng của Chúa Giêsu chắc chắn biết rằng lời chỉ trích của Con Mẹ và Mẹ thấy Con Mẹ, một Vì Thiên Chúa đã không giấu được sự bất bình của một người đàn ông giận dữ nhưng chứa đựng một mầu nhiệm của lòng từ bi cao cả… Vì tiếp theo là nước trong chum bỗng nhiên bắt đầu nhận được sức thánh hóa để có thể chuyển màu sắc, lan tỏa hương vị của một thứ rượu ngon lành, và cùng một lúc thay đổi hoàn toàn bản chất của nó, nước đã hóa thành rượu. Và việc chuyển đổi nước thành một chất khác cho thấy sự hiện diện của Đấng Tạo Hóa, quyền năng, bởi không ai, ngoại trừ người tạo ra từ không có gì ra nước, có thể chuyển đổi nước thành một cái gì đó khác tức là rượu.

Chúng ta đang tiếp tục hành trình sống của mình trong Năm Đức Tin, tưởng cũng nên nhắc lại Mầu nhiệm Năm Sự Sáng: Thứ Hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu làm phép tại tiệc cưới Cana. Ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa. Như vậy là Chúa nhật này, chúng ta xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa, tức là xin ơn Đức Tin.

Thật vậy, khi chiêm ngắm tiệc cưới Cana, nước hóa thánh rượu, loan báo hồng ân mà Chúa Giêsu thực hiện ngay trong Bí tích Thánh Thể và ghi nhớ giờ hiến dâng trên cây Thánh Giá, giờ Chúa trao ban chính thịt máu mình làm của nuôi nhân loại.

Tại Cana, Mẹ Maria đã hiện diện và can thiệp vào trong tiệc cưới. Vào giờ trên Thánh Giá; giờ Chúa Giêsu cử hành tiệc cưới với Giáo hội; Mẹ Maria cũng ở đây trong lúc chúng ta cầu nguyện; Giờ phút này đây, Mẹ cũng hiện diện để giúp đỡ chúng ta sống ơn gọi làm người, dâng hiến đời sống chúng ta hầu mưu ích cho tha nhân.

Cùng với Mẹ Maria, chúng ta xin Mẹ dạy ta học yêu mến Chúa Giêsu, Vị Hôn Phu của Giáo hội mãi mãi và yêu mến Giáo hội, Hiền thê của Chúa Giêsu.

Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu, chúng ta cầu xin Chúa cho chính chúng ta biết để ý đến nhu cầu của anh em; đồng thời cùng nhau thành tâm cầu nguyện cho tất cả mọi người nam cũng như nữ, những người phục vụ Tin Mừng biết sống khiêm nhường phục vụ trong đời sống hàng ngày; và nhất là cầu cho những ai có trái tim khép kín biết mở ra với tha nhân. [Mục Lục]

25. Gia đình có Mẹ – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

Trời có lúc mưa lúc nắng, lúc trong lúc mờ. Đời có lúc thăng lúc trầm, lúc buồn lúc vui. Tình có lúc nồng lúc nhạt, lúc thắm lúc phai.

Nghe sao có vẻ cải lương quá! Ấy thế mà tính chất cải lương kia lại cứ xuất hiện trong cuộc sống con người, nhất là trong cuộc đời hôn nhân. Không hiểu sao người ta hay ngâm nga: “Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở. Đời mất vui khi đã vẹn câu thề.” Phải chăng bắt đầu thề ước là bắt đầu xót xa? Ngày lên xe hoa thì cũng chính là ngày ra chiến trận? Mà trong trận chiến này, nếu không khéo, có ngày sẽ bị thương vong.

Đám cưới tại làng Cana mới bắt đầu mà đã có chuyện. Tiệc chưa tàn nhưng rượu lại hết. Nguy quá! Thế thì còn đâu mặt mũi tân gia. Không chừng cô dâu chú rể sẽ phải lục đục với nhau vì nhà anh đã không khéo chuẩn bị, còn nhà em thì cứ mời cho đông vào mà không cho biết trước. Không chừng vết thương trong ngày thành hôn sẽ để lại cơn đau khó tàn cho đôi uyên ương.

Thiếu rượu thì mất vui. Đám cưới mà không vui thì có hơn gì đám ma. Với lại truyền thống xưa nay của dân tộc là “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi.” Vậy mà khi khách chưa say, chất cay đã cạn. Bao nhiêu choé rượu sắm sẵn đều hết sạch. Bẽ mặt mất thôi! Chắc hẳn gia chủ lẫn tân lang và tân nương đang trải qua một phen bối rối, hốt hoảng ghê lắm. Biết tìm đâu ra rượu bây giờ?

Thấy được tình cảnh oái oăm của tân gia, Mẹ Maria đến gặp Con mình và nói: “Họ hết rượu rồi.” Đây là lời cầu cứu hay câu mẹ trách con vì đã đem theo mấy ông môn đệ nên mới làm cho người ta hết rượu? Nhưng nếu là câu trách thì tại sao Mẹ lại bảo các người hầu: “Ngài có bảo gì, hãy làm theo”? Câu này hàm chứa một cái nhìn tiên tri là Chúa Giêsu sẽ ra tay để làm một điều gì đó.

Chắc rằng trong suốt 30 năm sống bên Đức Giêsu, Mẹ đã thấy rõ quyền năng và tình nhân ái bao la của con mình đối với những kẻ sa cơ hoạn nạn. Thế nên hôm nay, khi thấy gia đình tân hôn bị rơi vào trường hợp éo le nan giải, Mẹ đã tìm đến với Chúa để xin Ngài ra tay. Nhưng, có một vấn đề khác: nếu như trước đó Đức Giêsu đã từng cứu giúp những người khốn khó thì tại sao vị Thánh Sử lại bảo đây là “dấu lạ đầu tiên”?

Theo văn mạch của Thánh Gioan thì đó là phép lạ đầu tiên mà “Chúa Giêsu đã làm tại Cana xứ Galilê.” Thế ra, có thể Ngài đã từng làm dấu lạ ở nơi khác, ví dụ như tại Nazaret, nhưng tại Cana thì đó là lần đầu. Ngoài ra Thánh sử Gioan cũng nhấn mạnh trong câu kết luận rằng Chúa Giêsu đã làm dấu lạ này “để tỏ vinh quang của Ngài cho các môn đệ,” những người vừa mới đáp trả lời mời gọi bước theo Ngài được mấy hôm.

Như vậy trước đó, có thể Đức Giêsu đã từng làm dấu lạ, không phải để tỏ vinh quang, nhưng chắc là âm thầm và qua tay Mẹ Maria. Phải chăng Chúa Giêsu đã từng nhờ Đức Mẹ làm trung gian để đem cái này, chuyển cái kia cho những người cùng khốn gian nan, nên Mẹ biết rõ quyền năng và tình thương của Chúa mà chạy đến cầu cứu? Phải chăng, dù là mẹ, Đức Maria vẫn từng làm theo ý Con, và đã thấy người ta nhận được biết bao ân phúc phi thường.

Cho nên trong giờ phút cam go của gia đình có đám, Mẹ đã kêu cầu Đức Giêsu. Và sau đó, Mẹ đã nhắn nhủ các lời khuyên phát xuất từ một lòng tin tưởng vững vàng vào tình yêu tha nhân nơi Con mình. Ngài không thể không chạnh lòng thương xót trước nỗi thống khổ của con người. Và đây cũng là lời nhắn nhủ đầy kinh nghiệm của Đức Maria, người đã từng làm theo lời Chúa và thấy bao kết quả tươi đẹp trong đời.

Ngài có bảo gì thì cứ làm theo. Lời nói biểu lộ lòng xác tín Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp. Mẹ Maria biết chắc Ngài sẽ đáp lời Mẹ xin. Thế mới thấy quyền phép nơi lời cầu bầu của Đức Mẹ hiệu năng dường nào. Không phải là Chúa Giêsu đã từng nói: “Giờ con chưa đến” sao? Vậy mà “Giờ con đã đến” vì lời Mẹ xin. Giáo hội đã có lý khi đưa vào kinh Cầu Đức Bà lời nguyện: “Đức Bà có tài có phép. Cầu cho chúng con” là vậy.

Các Thánh cũng công nhận rằng chẳng có sự gì Mẹ xin cùng Thiên Chúa mà không được. Thánh Antôn từng nói: “Vì Đức Maria là Mẹ, nên lời cầu xin như có sức truyền dạy trước toà Chúa Giêsu. Do đó, khi Mẹ xin gì thì không lẽ Chúa Giêsu lại không nhậm lời.” Thánh Ricarđê viết rằng: “Hễ Con quyền phép vô cùng thì Con cũng làm cho Mẹ vô cùng quyền phép. Đó là lẽ đương nhiên. Nhưng Con của Mẹ quyền phép vì bản tính Ngài là Thiên Chúa. Còn Đức Mẹ có quyền phép là nhờ ơn Chúa ban; nghĩa là Thiên Chúa quyền phép vô cùng, phán một lời liền có hết mọi sự. Còn Đức Mẹ quyền phép vô cùng, xin một tiếng liền được hết mọi sự.”

Nhờ có Mẹ can thiệp mà Chúa Giêsu đã cứu tiệc cưới tại làng Cana khỏi cảnh bẽ mặt ê chề. Nhờ lời cầu xin của Đức Mẹ mà giờ giải cứu con người khỏi kiếp khổ đau của Chúa Giêsu đã điểm. Nhờ sự khích lệ bảo ban của Mẹ mà con người biết cộng tác với Con Thiên Chúa để mang lại niềm vui của ơn phúc đầy tràn đến muôn tâm hồn.

Hôm nay, giữa trần thế, có biết bao gia đình “sắp hết rượu.” Lắm cõi lòng đã mất hẳn niềm vui. Nhiều cuộc tình đã rơi vào bế tắc. “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” không còn nữa. Làm sao cứu vãn đây?

Nếu đời có Mẹ, người ta sẽ gặp được ơn Chúa. Mời Mẹ đến với gia đình, chẳng bao giờ Mẹ để cho rượu nồng tình thắm bị cạn khô.

Thế nên, hỡi tất cả các gia đình, mới hay cũ, đang an hoà hạnh phúc hay trắc trở lao đao, hãy cậy nhờ và phó thác cho Mẹ Maria. Chắc chắn với Mẹ và qua Mẹ, Chúa Giêsu sẽ tỏ mình ra nơi gia đình anh chị em.

Không phải tình cờ mà Đấng Cứu Thế lại tỏ vinh quang của mình trong một cuộc hôn nhân. Không phải tình cờ mà vinh quang đó lại liên kết âm hưởng với sự hiện diện của Đức Maria. Trái lại, tất cả đã diễn ra trong cùng một mạc khải của Tin Mừng: gia đình có Mẹ là gia đình có Chúa; gia đình có Chúa là gia đình luôn có tình yêu tràn đầy và niềm vui dạt dào. [Mục Lục]

26. Có Chúa gia đình mới hạnh phúc

(Suy niệm của Cố Lm Hồng Phúc)

Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu và các môn đệ đi dự một đám cưới ở làng Cana và làm phép lạ cho nước biến thành rượu.

Đây là phép lạ đầu tiên trong 7 phép lạ mà Phúc Âm của Gioan kể lại. Gioan gọi là “dấu chỉ đầu tiên”, một bài học bằng việc làm để giúp ta hiểu một mầu nhiệm.

Sau khi được Gioan ban phép Rửa – Đề tài bài Phúc Âm tuần trước- Chúa Giêsu đã kêu gọi những môn đệ đầu tiên. Họ là Anrê, Gioan, Phêrô, Philiphê và Nathanael. Và hôm nay, Chúa dẫn cả nhóm đi ăn cưới tại làng Cana, cách Nagiaret khoảng 14 cây số, trong một gia đình quen thân, vì có cả Đức Mẹ cũng đến tham dự.

Chúng ta chú ý đến hai điểm mà Phúc Âm nói đến là: Giờ của Chúa và dấu chỉ của Chúa.

“Giờ của Ta chưa đến”. Có thể rằng trong những ngày dài, những đêm khuya khoắt sống bên cạnh Mẹ dưới mái nhà Nagiaret, Chúa Giêsu đã tỏ cho Mẹ hay về sứ mạng tương lai của mình.

Ngài cho Mẹ hay, Ngài sẽ sống với người nghèo khó, đem tình thương vỗ về ấp ủ, đem Chúa đến cho họ, giúp họ hoán cải cuộc sống tăm tối trở nên như một bửa tiệc cưới. Hôm nay, Đức Mẹ thấy con đem cả nhóm đồ đệ đến dự một đám cưới bình dân, chắc Đức Mẹ nghĩ rằng Giờ con tỏ quyền năng đã đến. Vì thế, với con mắt quán xuyến, với một giác quan nhạy cảm của người phụ nữ, Đức Mẹ biết nhà đám đang bối rối vì rượu đã cạn. Đức Mẹ không ngần ngại đến nói với Chúa, “Con nè, nhà này hết rượu”. Một câu nói đơn sơ trong tình mẹ con. Một câu nói đầy tin cậy như một lệnh truyền. Chúa Giêsu trả lời: “Giờ con chưa đến”, nghĩa là giờ tỏ vinh quang của Con chưa điểm. Mặc dầu thế, vì Mẹ đã xin thì con làm, Mẹ đã muốn thì Mẹ được như ý.

Mẹ là người tín hữu đầu tiên đã tin vào Chúa và lòng tin làm nên phép lạ, mặc dầu Giờ của Chúa chưa đến. Chúng ta thấy Đức Mẹ hành động cách tự nhiên, quả cảm. Mẹ bảo người giúp việc: “Thầy bảo sao hãy làm đúng vậy”.

Và phép lạ đã xảy ra.

Dấu chỉ của Rượu. Gioan trình bày các phép lạ của Chúa như những dấu chỉ, những mạc khải bằng việc làm. Phép lạ đó ám chỉ và mạc khải 3 điều:

Trước hết, đó là dấu chỉ quyền năng của Thiên Chúa. Xưa Chúa phán một lời từ cõi hư vô vạn vật xuất hiện, nay biến hóa sự vật đã có, nước hóa rượu, nào có khó gì!

Thứ đến, phép lạ mạc khải rằng Chúa đến khởi đầu một cuộc giao duyên mới: cuộc giao duyên giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Tiệc cưới hôm nay báo hiệu một tiệc cưới mới. Phaolô ví tình yêu liên kết đôi vợ chồng với tình yêu liên kết Chúa Giêsu và Giáo hội (Eph. 5, 25).

Phép lạ hôm nay cũng ám chỉ tình thương của Chúa đối với những ai sống trong bậc vợ chồng. Chúa tham dự tiệc cưới để thánh hóa hôn nhân. Ngày nay, nhiều cuộc hôn nhân cũng thiếu rượu của một mối tình khắng khít vĩnh cửu. Văn hào Taine nói mỉa mai: “Người ta tìm hiểu nhau 3 tuần, yêu nhau 3 tháng, cãi lộn 3 năm rồi chịu đựng nhau 30 năm… để con cái lại trở về cái vòng lẩn quẩn!”

Hôm nay, Chúa đến dự lễ cưới, biến nước lã nên rượu ngon, để thánh hóa hôn nhân. Có Chúa gia đình mới có hạnh phúc, cuộc sống tẻ nhạt biến thành rượu nồng. [Mục Lục]

27. Họ hết rượu rồi

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Đức Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana. Đám cưới là một cuộc vui kéo dài cả tuần. Tiếc thay, tiệc nửa chừng thì hết rượu. Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Ngài đã biến nước thành rượu. Ngài trả lại bầu khí vui tươi cho đám cưới.

Tin Mừng Gioan hay kể lại những dấu lạ có ý nghĩa.

Những dấu lạ vén mở con người Đức Giêsu.

Làm bánh hóa nhiều cho thấy Đức Giêsu là Bánh thật. Chữa người mù bẩm sinh cho thấy Đức Giêsu là Ánh Sáng. Hoàn sinh Ladarô cho thấy Đức Giêsu là sự Sống Lại.

Dấu lạ ở tiệc cưới Cana cũng cho ta biết Ngài.

Thứ nước dùng cho nghi thức tẩy uế của Do Thái giáo, Đức Giêsu biến nó thành rượu ngon, một lượng rượu khổng lồ vượt quá mức đòi hỏi.

Ngài biến nước của Cựu Ước thành rượu của Tân Ước. Như thế Ngài đã mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai, chan chứa niềm vui cứu độ.

Đức Giêsu cho thấy mình chính là Đấng Mêsia. Ngài đến để thiết lập một trật tự mới dồi dào và phong phú, như rượu vừa nhiều vừa ngon.

Cựu Ước không làm con người mãn nguyện. Con người vẫn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc vẫn là cái gì bèo bọt, mong manh.

Đức Giêsu đã dự tiệc cưới ở Cana. Ngài muốn dự mọi bữa tiệc liên hoan của con người. Ngài muốn chia sẻ và bảo vệ niềm vui bé nhỏ nơi họ.

Đừng để Đức Giêsu đứng ngoài hạnh phúc của bạn. Đừng coi Ngài là người ganh ghét với niềm vui bạn có.

Nếu bạn nghe lời Ngài, đổ nước đầy các chum rỗng, bạn sẽ gặp được hạnh phúc vững bền.

Dấu lạ Cana chủ yếu cho ta thấy Đức Giêsu là ai, nhưng Đức Maria cũng có một vai trò đáng kể.

Mẹ hiện diện trong tiệc cưới như thân mẫu Đức Giêsu.

Mẹ thấy rõ sự lúng túng lo âu của chàng rể.

“Họ hết rượu rồi”: Mẹ chỉ nói với Con như vậy. Câu nói của Mẹ ẩn chứa một lời nài xin kín đáo. Mẹ mong Con làm một điều gì đó mà Mẹ không rõ. “Người bảo gì, các anh hãy làm.”

Quả thật Đức Giêsu có bảo và các gia nhân có làm, nhờ đó dấu lạ Cana được thực hiện. Qua sự đóng góp của Mẹ trong dấu lạ mở màn này, đức tin của các môn đệ được củng cố và lớn lên.

Hôm nay Mẹ vẫn nói nhỏ với Chúa: Họ hết rượu rồi!

Niềm vui chợt tắt, tình yêu nhạt phai, gia đình tan vỡ… Cần biết bao sự hiện diện của Chúa và Mẹ trong mỗi gia đình, giữa lúc khó khăn bối rối.

“Người bảo gì, các con hãy làm”: Đó vẫn là lời Mẹ nhắn nhủ chúng ta hôm nay.

Gợi Ý Chia Sẻ

Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc ngay từ đời này. Theo bạn, thế nào là một con người hạnh phúc? Hạnh phúc đích thực dựa trên những yếu tố nào?

Đâu là những điều đe dọa hạnh phúc bình thường của một người?

Cầu Nguyện

Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.

Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa. [Mục Lục]

28. Vị khách quyền năng – B.M.Thiện Mỹ CRM

LỜI CHÚA:

* Bài đọc1: Is.62:1-5: Người chồng sẽ vui mừng vì vợ.

* Bài đọc 2: 1Cr.12:4-11: Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người qui định.

* Phúc âm: Ga.2:1-12: Hễ Người bảo gì thì hãy làm theo.

SUY NIỆM:

Một phụ nữ kể về việc trang trí nội thất của gia đình. Mọi việc trang hoàng đều được vợ chồng đồng ý. Bỗng một hôm chồng bà tự ý bảo người thợ treo ảnh Chúa Giêsu vào chỗ trang trọng nhất trong nhà. Bà không bằng lòng, cố hết sức thuyết phục chồng đổi ý nhưng ông vẫn khăng khăng.

Đang lúc hai vợ chồng cãi nhau, bà sực nhớ lời Chúa Giêsu: “Ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác. Ta cũng sẽ nhìn nhận kẻ ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt.10:32).

Thế là bà chịu theo ý chồng. Và từ đó Chúa Giêsu luôn ban cho gia đình bà an vui hạnh phúc, đến nỗi một người bạn sau khi ngắm bức ảnh đã thốt lên: “Lúc nào tôi cũng thấy gia đình chị yên vui. Ấn tượng mạnh nhất tác động trên bạn bè khách khứa chúng tôi là mỗi khi nhìn lên ảnh Chúa Giêsu, tâm hồn chúng tôi luôn được nâng cao….”

Và bà đã kết luận: “Theo thiển ý tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà chắc bạn sẽ được biến đổi hoàn toàn”.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện cưới của đôi tân hôn. Họ biết mời Chúa , Đức Mẹ và các môn đệ vào nhà dự tiệc. Nhờ đó, qua sự lưu tâm chăm sóc cầu bầu đặc biệt của Đức Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên tại Cana miền Galilê.

Lễ cưới là một lễ quan trọng thật sự cho mọi người trên khắp thế giới. Tại Palestine, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường làng, dưới ánh đuốc, có lọng che đầu. Đường đi càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Hồi đó vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Họ được đối xử như vị vua và hoàng hậu. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng vui vẻ, quả thực là kỷ niệm vô cùng đặc biệt trong cuộc đời. Hòa với niềm vui con người, Chúa Giêsu đã vui vẻ tham dự ngày hạnh phúc ấy. Tuy nhiên có vấn đề trục trặc xảy ra.

Trong bữa tiệc của người Do Thái, rất cần phải có rượu. Chính các thầy Do Thái cũng nói: “Không rượu thì không vui”. Đó không phải là vì người ta nghiện rượu. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều rất xấu hổ. Nhưng ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng: thiếu thức ăn, thức uống trong tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể. Hôm nay nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Lời cầu nguyện của Đức Mẹ xin Chúa Giêsu là lời cầu xin đầy khiêm tốn, nhất là Mẹ nhận lại lời đáp ứng dường như có vẻ cứng cỏi của Chúa Giêsu: “Thưa bà, chuyện đó có can chi đến bà và con, giờ của con chưa đến”. Thế nhưng Đức Mẹ đã từ bỏ mình, chỉ nghĩ đến tình hình khẩn cấp nan giải của gia chủ. Cuối cùng, chẳng những do lời cầu của Đức Maria mà Chúa được vinh hiển, mà khắp nơi qua mọi thế hệ, Kinh Thánh được loan truyền cho mọi người thấy Chúa làm phép lạ là do lời Mẹ cầu bầu.

Bài suy niệm trên đây giúp chúng ta học được rất nhiều điều quí giá:

– Trước hết là sống với Đức Kitô: Như đôi tân hôn trong ngày đại lễ, họ đã đón nhận vị thượng khách đến nhà, chúng ta cũng hãy đồng hành với Đức Kitô trong mọi sự. Đón nhận Đức Kitô qua bí tích Thánh Thể, qua sự kết hợp thiêng liêng. Từ đó ánh quang phục sinh của Chúa sẽ lan tỏa trong mọi hành vi của cuộc sống thường nhật. Không những chúng ta mời Đức Kitô đến tham dự tiệc cưới mà còn mời Ngài tham dự bất cứ yến tiệc nào trong cuộc đời. Chúng ta mời Chúa đến chỉ huy mọi công trình vĩ đại đã vậy, mà còn mời Ngài giúp đỡ cả những công việc khác nữa. Chính Ngài sẽ hoàn hảo mọi sự trong ngoài cho đời sống chúng ta. Xưa kia Chúa cũng đã biến đổi các tâm hồn và thường làm phép lạ trong các gia đình: Người chữa bà mẹ vợ thánh Phêrô khỏi bệnh (Mc.1,31). Cho con gái ông Giairô sống lại (Mc. 5, 41). Chữa lành bệnh nhân nhà người biệt phái (Lc. 14,4). Chúa biến đổi anh thu thuế Giakêu (Lc. 24,30). Chúa mở mắt tâm hồn cho hai môn đệ làng Emmau v.v…

– Sau nữa chúng ta hãy bắt chước Đức Mẹ Maria. Nghĩa là phải cầu xin với lòng tin tưởng. Lịch sử ơn cứu độ đã chứng minh điều đó: Bởi đức tin, nước Biển Đỏ rẽ đôi; bởi đức tin đại quân ngoại bang phải rút lui; bởi đức tin thành Giêricô xụp đổ. Nhờ đức tin, mà người mù được sáng, què được đi, kẻ phung được sạch, người chết rồi cũng được sống lại. Đức Maria hôm nay tin vững chắc rằng: “Người bảo gì cứ làm theo”.

Tắt rằng, Đức Kitô vẫn luôn hiện diện trong đời sống chúng ta qua những nỗi buồn vui sướng khổ. Đó là ân huệ ở tiệc cưới trần đời này và là hạnh phúc đời đời ở tiệc cưới đời sau trên thiên quốc. Có Chúa chúng ta không còn sợ hãi, không còn thiếu thốn, mà Ngài còn là con tầu êm ái đưa ta về quê trời. Tsty"�i s�.< ớ đ�về àyong đ�ign l�c s��t-ceatưac� ��nkh�à ời i�ng cem>< �ng ��t rr �atưac a r �atưac� ��u�, mà �ờ��về �ờcûrr Ãe�� trÙv� i�cg ta kac�e�mưa o,u��c rn, mà N� justifiiếu

� co ��t >M>�e�con t�v/� xe��con >M>� rn, ong�y"��h�l� ��t� �a1 st��nkh�àp>i à justifr �c�màưac� ��u�, m�ắ��t >M�cït� ig�ư >M��t-ceat�p styM i�nc< io� rn, c� s����ttg�ưlv� ������i �à ời � �otexđưac� cú�t�ttg�����r �at�r>M�tustifr��hỺ���rf< io� rn,�ote� coi�n>��k>>M�tustif1 st��nkh�àp>ust>< io Tfr �c�màưng �� ��u�, m�ắ��tote���i ��r �c�>ưac� m���tu �oa1ac� c� ��nkh�à ời i�nxe>� c� ��nkn l�c� co< �n��u�, m���t-ceat� Tfnc�f1 eNke�n��u�, mïign Mi àc�t-Nfr�g�y���� -ceat� Tfoa1ac� c� �